Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

Hợp tác sản xuất chương trình cần tiếng nói chung giữa các Đài PTTH

Như chúng ta đã biết, hiện nay,cả nước có 67 đài với 100 kênh sóng chương trình truyền đi hàng ngày. Ngoài 3 đài TH (Đài THVN; VTC; Đài TH TP HCM) thì còn có 64 Đài PTTH các tỉnh và thành phố. Những năm qua vấn đề xã hội hóa truyền hình (XHH TH) đã được các đài thực hiện và đạt được kết quả rất tốt. Việc tăng cường XHH truyền hình đã làm phong phú, hấp dẫn chương trình, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân.

Hiện nay, hoạt động XHH TH đang diễn ra rất sôi động và theo nhiều cách thức hợp tác, phối hợp hay liên kết sản xuất chương trình, nhưng tựu trung có hai cách:

Thứ nhất: Các Đài PTTH tỉnh hợp đồng liên kết sản xuất chương trình hoặc mua sản phẩm hoàn chỉnh với các đối tác, các công ty tư nhân theo quy định của Thông tư số 19 ngày 28/5/2009 của Bộ TT&TT "Quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình PTTH".

Thứ hai: Các đài PTTH tỉnh liên kết, hợp tác trong trao đổi chương trình, phối hợp sản xuất chương trình (dựa vào nhau để sản xuất nhiều chương trình, tác phẩm tốt tạo sức cạnh tranh trên sóng) khi điều kiện toả sóng đã được mở rộng qua vệ tinh Vinasat1.
Bài viết này không bàn về cách thứ nhất mà tập trung làm rõ ưu điểm của cách thứ hai. Từ đó, đề xuất phương thức và nội dung liên kết, phối hợp giữa các Đài PTTH tỉnh với nhau để sản xuất được nhiều chương trình tốt phục vụ nhân dân.

Từ những kết quả trao đổi chương tình, liên kết, hợp tác sản xuất với các đài bạn trong thời gian qua đối với các Đài PTTH địa phương cho thấy:

- Hàng năm, các Đài PTTH địa phương đã trao đổi chương trình tự sản xuất bao gồm các băng, đĩa phim phóng sự, phim tài liệu, chương trình ca nhạc... của các đài bạn. Chương trình của các đài bạn đã giúp cho Đài PTTH các địa phương mở thêm được chuyên mục "Nhìn ra tỉnh bạn" và tăng thêm thời lượng và chất lượng chương trình ca nhạc, được người xem đồng tình. Nhiều phim phóng sự, phim tài liệu mang tính cổ vũ, khích lệ học tập làm theo điển hình nhân tố mới rất có giá trị.

- Sự kết phối hợp sản xuất chương trình giữa đài PTTH địa phương với nhau đạt hiệu quả tốt như: Phối hợp với Đài PTTH địa phương thực hiện cầu truyền hình "Những dòng song hò hẹn" của các đài địa phương phía Nam từ Bình Thuận đến Cà Mau,  làm tăng thêm tính phong phú, hấp dẫn của chương trình văn nghệ giải trí; Các đài PTTH phối hợp thực hiện kịch bản, hoặc nhờ đài bạn cung cấp tư liệu phục vụ các chủ đề tuyên truyền, máy quay phim, phỏng vấn nhân vật...

Từ việc hợp tác trao đổi chương trình, liên kết sản xuất các chương trình mới, đã nâng cao hơn chất lượng kênh sóng của các đài địa phương. Cụ thể là:

- Khai thác thêm được đề tài mới, nội dung mới, thông tin mới thu hút người xem, có thêm chương trình phát sóng; tiết kiệm được chi phí trong việc tự mình sản xuất chương trình. Đồng thời tăng cường tình đoàn kết giữa các đài, cùng dựa vào nhau làm cho chương trình hấp dẫn; khai thác được thế mạnh về kỹ thuật, về nghiệp vụ của các đài, đồng thời quảng bá được phong trào của địa phương này sang địa phương khác; tăng thêm hiệu quả học tập và làm theo điển hình.

- Các chương trình phối hợp thực hiện tốt vẫn kêu gọi được tài trợ, kêu gọi được quảng cáo.

- Qua tác phẩm, chương trình có thể học tập lẫn nhau về phương pháp tư duy tìm chọn đề tài, ý tưởng đề tài, quy trình sản xuất và kỹ năng thể hiện.

Tuy nhiên, những kết quả ấy mới chỉ là bước đầu chưa phản ánh được đầy đủ giá trị to lớn và thế mạnh của sự liên kết, phối hợp giữa các đài  trong điều kiện cạnh tranh, thu hút người xem truyền hình hiện nay.

Vậy muốn phát huy thế mạnh này các đài cần làm gì?

Trước hết, là đài địa phương, ngân sách được cấp không nhiều, nguồn thu quảng cáo và các nguồn thu khác không được nhiều như các đài lớn; cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật thiếu và không đồng bộ... Những khó khăn đó đặt ra cho các đài nhu cầu tất yếu phải dựa vào nhau, cùng nhau tạo ra chất lượng chương trình đáp ứng yêu cầu của nhân dân ngày càng tốt hơn. Bởi vì, thực chất xã hội hoá PTTH của các đài địa phương, ngoài việc tìm đối tác phù hợp để ký kết các hợp đồng, chúng ta còn có một tiềm năng chưa được khai thác tốt đó là dựa vào nhau, giúp nhau khai thác thế mạnh của  hệ thống các đài địa phương.

Muốn tạo được hiệu quả liên kết, hợp tác tốt hơn, theo chúng tôi, lãnh đạo các đài phải xác định rõ đây là việc cần thiết để sớm thống nhất  chủ trương, cùng xây dựng quy định liên kết, phối hợp chung. Từ đó xây dựng nội dung phối hợp sản xuất chương trình, cách thức liên kết, hợp tác, phối hợp và duy trì tốt nền nếp phối hợp trao đổi, sản xuất chương trình.

Trong xu thế xã hội hoá PTTH đang mở rộng thì việc hợp tác, phối hợp sản xuất chương trình phát thanh truyền hình gĩưa các đài được thực hiện tốt sẽ là giải pháp hiệu quả nhất để tăng sự hấp dẫn của kênh sóng mỗi đài.

Thứ hai, lựa chọn những nội dung cần thiết tăng cường liên kết, hợp tác, phối hợp sản xuất chương trình:

- Tăng cường trao đổi chương trình phát sóng về các thể loại phim phóng sự mang tính tổng kết kinh nghiệm thục tiễn như: Giới thiệu kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới; những điển hình, mô hình đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống đạt hiệu quả cao; điển hình sản xuất kinh doanh giỏi; kinh nghiệm thu hút đầu tư; kinh nghiệm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả cao; kinh nghiệm trong xây dựng Đảng; giải quyết việc làm cho lao động; xoá đói giảm nghèo; phong chống ma tuý hiệu quả; phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo ở những tỉnh có biển đảo...

Tăng cường trao đổi các phim tài liệu về đề tài đất nước, con người, bản sắc văn hoá riêng của các tỉnh; chân dung điển hình trên các lĩnh vực cuộc sống; phim tài liệu về du lịch, và về các lĩnh vực xã hội; tài liệu nghệ thuật... Các chương trình ca, múa, nhạc, thơ về một chủ đề; giao lưu nghệ thuật; ca nhạc dành cho thiếu nhi; giới thiệu tác giả tác phẩm; giới thiệu các làn điệu dân ca...

- Tăng cường liên kết, phối hợp sản xuất chương trình như: Cùng tổ chức, thực hiện cầu truyền hình, cầu phát thanh trực tiếp về một số sự kiện lớn của các tỉnh; tiếp tục phối hợp tổ chức giao lưu "Gặp gỡ những dòng sông" giữa các tỉnh có các làn điệu dân ca nổi bật trong kho tàng dân ca Việt Nam; phối hợp cùng làm phim về một đề tài...

Bài viết này không đề cập việc liên kết, phối hợp sản xuất các trò chơi truyền hình; phim truyện truyền hình; các chương trình sân khấu. Bởi vì những thể loại này đòi hỏi đầu tư lớn về nhiều mặt, các đài địa phương khó thực hiện.

T.s Lê Thanh Minh
R&D Manager - Cửu Long Phim


"BỘI THỰC" KÊNH TRUYỀN HÌNH TẠI VIỆT NAM ?

Hiện nay, với từ 50 - 100 ngàn đồng/tháng (cước trả tiền truyền hình cáp hay kỹ thuật số) chỉ cần ngồi ở nhà, mọi thành viên trong gia đình có thể xem được các chương trình giải trí riêng biệt theo sở thích: từ phim, ca nhạc, tạp kỹ, gameshow, Hoa hậu, thời trang, du lịch và khám phá, thể thao, ẩm thực, thậm chí mua sắm hay hát karaoke, khám bệnh qua truyền hình... Để có thể mang được “cả thế giới đến gia đình bạn”, giữa các nhà đài đã có những cuộc đua khá quyết liệt.  
Tăng số lượng kênh truyền hình...

   Ngoài các kênh truyền hình truyền thống và miễn phí như: HTV7, HTV9, VTV1, VTV3, VTV9 thì hiện nay với sự “tiếp sức” của hệ thống truyền hình cáp (VCTV, SCTV - thuộc VTV, HTVC - thuộc HTV) và truyền hình kỹ thuật số (VTC), ở Việt Nam đã có hơn một trăm kênh phát sóng chương trình trong nước và quốc tế với các nội dung khác nhau, trong đó đa số thiên về giải trí phục vụ cho nhiều lứa tuổi, đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu đa dạng của khán giả.

   Chỉ tính riêng trên các mạng truyền hình lớn, xem phải trả tiền như VCTV, SCTV, HTVC đã có hơn 70 kênh nước ngoài, trong đó có 23 kênh tổng hợp, 7 kênh tin tức, 9 kênh phim truyện, 17 kênh thể thao, 5 kênh khoa học, 6 kênh thiếu nhi, 6 kênh ca nhạc - giải trí tổng hợp. Còn số kênh có chương trình sản xuất  trong nước là hơn 80 kênh, trong đó VTV có 29 kênh, SCTV có 14 kênh, VCTV 15 kênh, HTVC 16 kênh, VTC 14 kênh...
 Có thể chia thành các kênh chuyên biệt theo lứa tuổi: trẻ em (các kênh hoạt hình như: Play House Disney Channel, Cartoon Network, Animax, BiBi,  Sao TV...); tuổi teen (các kênh: Yeah1, Yan TV, VTV6) ; phụ nữ (gồm kênh HTVC Phụ nữ, HTVC Gia đình, TV shopping-mua sắm, Nhịp cầu mua sắm, Home Shopping Network)... Hoặc chia theo chuyên mục và nhu cầu, sở thích: thể thao (gồm các kênh: ESPN, Star Sport, Bóng đá TV, Goal TV1, Goal TV2 ); phim điện ảnh thế giới (các kênh: HBO, Cinemax, AXN, Star Movies, TCM, MGM ); phim truyền hình châu Á (các kênh: Astro Cảm xúc, HTVC phim, HTV3...); ca nhạc (các kênh: HTVC ca nhạc, MTV (nhạc quốc tế), Chanel V,  M4Me - âm nhạc tương tác) ; khám phá thế giới về thiên nhiên và động vật, du lịch (các kênh: Discovery, Animal Planet, Discovery Travel and Living, National Geographic, Adventure 1, HTVC Du lịch và cuộc sống); thời trang (các kênh: Fashion TV, Style TV); sức khỏe và đời sống (các kênh: O2 TV, VCTV12 - Sức khỏe, VTC14 - môi trường và thiên tai)... Ngoài ra có những kênh giải trí tổng hợp với nhiều chuyên mục từ khoa học giáo dục, thể thao văn hóa, văn nghệ giải trí, chuyên đề, phim truyện... như: VTV1, VTV3, HTV7, HTV9, Let’s Việt, Today TV (VTC7), Star World, Reality TV (Việt Nam), VBC... Năm 2009, có các kênh mới ra đời như: FBNC, Reality TV, VBC, VTV14 - môi trường và thiên tai (phát sóng chính thức từ 1.1.2010). 
Sang năm 2010, các đài VTV, HTV và truyền hình kỹ thuật số VTC còn mở thêm nhiều kênh mới. Không chỉ phủ sóng ở các thành phố lớn bằng hệ thống kỹ thuật số, mà nhờ công nghệ HDTV (qua vệ tinh) khán giả ở các vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo cũng sẽ được xem nhiều hơn số lượng kênh truyền hình. Số lượng kênh tăng, các nhà đài cũng liên tục đưa ra các hình thức khuyến mãi hấp dẫn để tăng số lượng thuê bao... Trên cùng một địa bàn dân cư ở Hà Nội hay TP.HCM hiện nay có đến vài ba nhà cung cấp dịch vụ, dẫn đến sự cạnh tranh về số lượng thuê bao giữa các đài. 

Chạy đua của các nhà đài

   Nhiều kênh nên khán giả thoải mái lựa chọn và họ sẽ so sánh để quyết định ủng hộ chương trình nào phù hợp nhu cầu giải trí của mình. Hơn ai hết các nhà đài đều hiểu rằng, để có được rating khán giả bền vững và ngày càng đông thì phải có được những chương trình riêng, đặc sắc và hấp dẫn. Điều này đẩy các đài vào cuộc đua  về số lượng và chất lượng chương trình phát sóng....

   Để giữ chân khán giả, hiện nay mỗi kênh đều cố gắng tạo được nét riêng biệt. Ví dụ: Kênh VTV1, VTV3 và HTV9, HTV7 (dù miễn phí) vẫn tăng cường Phim Việt giờ vàng với những bộ phim mới chiếu lần đầu; phim truyền hình Hàn Quốc và hoạt hình Nhật Bản được lồng tiếng Việt là của riêng kênh HTV3; kênh Bibi giới thiệu khá nhiều phim hoạt hình của Nhật Bản, Trung Quốc được thuyết minh tiếng Việt; kênh Astro Cảm xúc chiếu phim điện ảnh và truyền hình của các nước, như Malaysia, Indonesia...; kênh VBC chiếu phim truyền hình dài tập của các nước Nam Mỹ; kênh HBO với những bộ phim truyện hàng đầu của Mỹ có phụ đề tiếng Việt... Let’s Việt là kênh thuần Việt đầu tiên với nhiều chương trình giải trí ấn tượng như: Chuyện phái đẹp, Bệ phóng tài năng, Nhịp điệu trẻ, Chuyện lý chuyện tình, CLB Diễn viên thử nghiệm...có dàn MC là diễn viên nổi tiếng như Chi Bảo, Hồng Ánh, Thiệu Ánh Dương, Trịnh Kim Chi, Thanh Vân, Việt Anh, Hải Yến, Bình Minh... VTV6 dành cho thanh thiếu niên với các chuyên mục Nhà tròn, Nối mạng ý tưởng, Sinh ra từ làng, Nút Rec của tôi, Vũ điệu xanh,  Ngày mới, Hành trình tuổi trẻ làm theo lời Bác, Ngôi sao ước mơ, Cầu vồng, Câu lạc bộ 2M... rất phong phú và hấp dẫn...Kênh FBNC dành cho giới kinh doanh rất ấn tượng về hình thức, nội dung phong phú, hấp dẫn và cách dẫn của MC rất chuyên nghiệp... Vừa duy trì nét riêng, các kênh phải liên tục đổi mới theo hướng cập nhật - thực tế - tương tác cao để cạnh tranh khán giả. Ví dụ như năm 2009 các kênh: Yeah1 TV, SaoTV, VTV6... đều có những chuyên mục mới...

  Sự tồn tại cùng lúc nhiều kênh có cùng phân khúc khán giả dẫn đến tình trạng nội dung na ná nhau, bắt chước nhau và thiếu hụt chương trình phát sóng. Theo dõi kỹ sẽ thấy nhiều phim truyền hình dài tập (Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc), video clip ca nhạc (trong nước và quốc tế), gameshow hay talkshow... được phát sóng vòng vòng trên nhiều kênh, từ VTV hay HTV đến HTVC, VCTV đến đài tỉnh. Phụ thuộc quá nhiều vào các chương trình mua bản quyền nước ngoài, khiến một số kênh bị đuối... sau một thời gian phát sóng. Một số kênh thì gây cảm giác lắp chương trình vào cho đủ giờ phát sóng, mà không có sự đầu tư xây dựng mang nét  riêng... Các trò chơi trực tuyến thông qua nhắn tin phát triển ồ ạt trên nhiều kênh, lấn lướt nội dung. Ngay cả kênh thiếu nhi cũng nhan nhản nào là Đấu trường IQ, Limo, Đấu giá ngược, Chị Thỏ Ngọc, Alibaba. Các kênh mua sắm đã trở thành kênh quảng cáo, khi có một số ít sản phẩm cứ lặp đi lặp lại trong nhiều ngày. Để thu hút tài trợ, quảng cáo là chính nên một số kênh dành cho tuổi teen rất ít tính giáo dục hay định hướng nhân cách... chủ yếu khai thác tin gây sốc trong giới giải trí, hay địa chỉ mua sắm. Nội dung chương trình thuần Việt của một số kênh còn sơ sài, kết cấu nhàm chán, đơn điệu, MC nói vấp nhiều...

Khán giả chưa là thượng đế

   Với cả trăm kênh như hiện nay, các đài truyền hình đã thực hiện được slogan “mang cả thế giới đến ngôi nhà của bạn”. Có nhiều kênh nên khán giả được quyền lựa chọn, thưởng thức nhiều chương trình giải trí (nhiều nhất là phim, thể thao, ca nhạc) hay,chọn lọc, mới lạ và hấp dẫn của trong và ngoài nước. Sự xuất hiện của các kênh chuyên biệt đáp ứng nhu cầu giải trí theo thời gian biểu phù hợp của khán giả trong guồng quay của cuộc sống bận rộn hiện nay.   

Số lượng kênh truyền hình tăng nhưng lại tỷ lệ nghịch với những ca thán của khán giả, nhất là những người thuê bao truyền hình trả tiền hàng tháng. Khán giả liên tục ca thán về chuyện chương trình lặp lại, nội dung nhạt nhẽo, quảng cáo lấn lướt và bấm remote... mỏi tay mà khó chọn được kênh hay chương trình yêu thích. Các nhà cung cấp dịch vụ đua nhau khuyến mãi để tăng số lượng thuê bao song chất lượng đường truyền thì kém: mất sóng, ngưng sóng, hình ảnh xấu và mờ nhòe. Tháng 9.2009 HTVC tăng phí thuê bao gói thấp nhất lên 66.000 đồng/thuê bao/tháng; SCTV tăng phí nhóm A trên địa bàn TP.HCM từ 44.000 đồng/thuê bao/tháng lên mức tương đương. Phí tăng để nhà Đài bảo trì và nâng cấp mạng... nhưng chất lượng đường truyền của SCTV và HTVC vẫn không được cải thiện nhiều.  

Hậu trường ngành truyền hình cho thấy: Đội ngũ sản xuất chương trình hiện nay vừa thiếu, vừa ít kinh nghiệm. Đào tạo nhân lực không được chuẩn bị kỹ trước khi “nở rộ” kênh nên đã diễn ra tình trạng giành giật nhân sự giữa các nhà đài, các kênh với nhau. Dù các đài đẩy mạnh xã hội hóa liên kết sản xuất với tư nhân, song phần đông là công ty quảng cáo và truyền thông, nên chỉ mạnh về tài trợ, chi phí sản xuất hay mua bản quyền, format chương trình, còn nguồn nhân lực vẫn chủ yếu dựa vào đội ngũ có sẵn của các đài và tuyển từ bên ngoài theo kiểu vừa làm vừa đào tạo. Bởi vậy, chất lượng của nhiều chương trình truyền hình chưa đáng “đồng tiền bát gạo” của khán giả bỏ ra.  

   Dù sao, việc “nở rộ” kênh với cuộc đua của các nhà đài trong cạnh tranh khán giả sẽ đem đến sự đổi mới về số và chất lượng của chương trình truyền hình trong tương lai. Và cuộc đua này sẽ chọn lọc và đào thải bớt các kênh không thu hút được số đông khán giả.
T.s Lê Thanh Minh 
R&D Manager - Cửu Long Phim

TÀI TRỢ PHIM - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NHÀ SẢN XUẤT

“Cũ người mới ta”... hình thức quáng cáo sản phẩm trong phim (Product Placement – hay còn gọi một cách tế nhị là tài trợ) đang được ưa chuộng ở Việt Nam...
GÓP PHẦN KÍCH CẦU SẢN XUẤT PHIM ...
   Hình thức tài trợ (Product Placement) là khi nhãn hàng chi trả một số tiền cho nhà sản xuất phim để quảng bá, bằng cách lồng ghép các sản phẩm vào nội dung phim. Nhà sản xuất phim và nhãn hàng đó đều có lợi: nhà sản xuất phim có thêm kinh phí để sản xuất phim, còn sản phẩm được người xem truyền hình biết đến nhiều hơn. Các nhà sản xuất đã nhìn thấy tiềm năng vô cùng lớn của lĩnh vực này, nhất là khi khán giả đã nhàm chán với kiểu quảng cáo bằng các spot TVC trên màn ảnh nhỏ.
  Bấy lâu nay phim Việt Nam luôn ở trong tình trạng... ít tiền, thường xuyên phải “liệu cơm gắp mắm” để sản xuất. Kinh phí đặt hàng của các đài truyền hình hiện nay tính trung bình 200 triệu đồng/tập (được đổi thành 4-6 spot quảng cáo TVC 30 giây trong giờ vàng). Chuyện đổi spot quảng cáo, hay đấu thầu spot quảng cáo đang đẩy các nhà sản xuất vào thế không thể nói “không” với tài trợ hay quảng cáo trên phim. Bộ phim lịch sử cổ trang Huyền sử thiên đô đã tổ chức tới 4 event lớn, trong đó có 2 event nhờ CLB Doanh nhân đứng ra với hy vọng tìm kiếm được phần nào tài trợ quảng cáo của các doanh nghiệp để lỗ ít thôi, vì chi phí sản xuất phim này cao gấp 6 lần so với khung giá trần của đài truyền hình. Ngoài ra, còn có một thực tế là không phải nhà sản xuất phim nào cũng có sẵn một số tiền (từ 4-6 tỷ đồng/ 30 tập phim – số tập trung bình của phim truyền hình Việt hiện nay) để “ung dung” làm phim rồi chờ ngày lên sóng thu lại. Bởi vậy, hình thức Product Placement (viết tắt PPL) đưa các sản phẩm quảng cáo vào phim là cách giúp nhà sản xuất vừa có tiền vừa giảm bớt được chi phí  làm phim.
 Về lợi ích đáng kể của việc nhận được tài trợ, có thể ví dụ như: bộ phim truyền hình Anh em nhà bác sĩGia tài bác sĩ có bối cảnh chính chiếm phần lớn phim là bệnh viện, hay phim Chuyện tình Đảo Ngọc có bối cảnh chính là một khu resort biển sang trọng... nếu Anh em nhà bác sĩ  không có bệnh viện FV hay Chuyện tình Đảo Ngọc không có khu du lịch Vinpearl Land tài trợ, thì nhà sản xuất sẽ phải chi khá nhiều tiền cho việc xây dựng phim trường hoặc thuê bối cảnh để quay trong mấy tháng trời. Những sản phẩm cao cấp hoặc đắt tiền (như xe hơi, điện thoại di động, trang phục cao cấp) xuất hiện trong phim Cô gái xấu xí, Có lẽ nào ta yêu nhau, Bỗng dưng muốn khóc... mà không có sự tài trợ của các nhãn hiệu, nhà sản xuất hay diễn viên cũng khó trả nổi chi phí thuê mướn... .
   Thời gian qua, PPL phim truyền hình “nở rộ” với sự bắt tay của nhiều nhãn hàng từ đồ dùng trong gia đình đến các nhãn hàng cao cấp, có thể kể như: Dầu gội, nước thơm toàn thân... của Double Rich trong phim Tình yêu pha lê; SamSung (điện thoại và tủ lạnh), dầu ăn Neptune 1:1:1; Double Rich trong phim Cha dượng; Nệm Liên Á và nước uống Spy, Farmaton, Dệt Thái Tuấn... trong phim Hạnh phúc có thật; Nestle Café, Maggie... trong phim Lọ lem thời @;  Vinamilk, Nestle Café trong phim KTX;  Nivea trong phim Mùa chim én xôn xao; Thời trang Foci và Nem, Highlands Coffee trong phim Cô gái xấu xí; Pepsi, trà xanh không độ, Sapuwa trong phim Tuổi yêu; Chinsu, mật ong Cà Mau... trong phim Kính thưa Ôsin; Dầu ăn và cà phê hòa tan, trà xanh C2 trong phim Bí kíp; thực phẩm chức năng trong phim Lời thú nhận của Eva; một số ngân hàng lớn trong phim Xin thề anh nói thật; điện thoại Nokia trong phim Cuộc gọi lúc 0 giờ ...
QUYỀN LỢI CỦA NHÀ TÀI TRỢ
   Xuất hiện “tình cờ” trên phim ảnh là lựa chọn tối ưu để việc quảng cáo sản phẩm, thương hiệu của nhà tài trợ đỡ thô thiển, nhàm chán. Một spot quảng cáo TVC xuất hiện vào giờ vàng trên truyền hình giá trung bình từ 30 - 60 triệu đồng/30 giây ; trong khi tài trợ cho phim có mức giá từ 5-10 triệu đồng/phút... Một bộ phim truyền hình thường không chỉ chiếu trên một kênh mà nhiều kênh, đồng nghĩa với việc sản phẩm được quảng bá lặp tới, lặp lui. Như vậy, so với việc quảng cáo TVC thì hình thức tài trợ này tiết kiệm được nhiều chi phí hơn hẳn mà còn dễ dàng kiểm soát được hình thức, cũng như nội dung, thời lượng xuất hiện của sản phẩm trên phim... Các hình thức tài trợ phổ biến hiện nay là: Cho các sản phẩm tham gia “diễn xuất” trực tiếp trong phim cùng các diễn viên chính như sử dụng điện thoại, túi xách, quần áo, xe hơi... Cách thứ 2 là sản phẩm đó được làm nền cho một cảnh quay hoặc được gọi tên hay nhắc đến qua lời thoại của diễn viên. Tùy theo đặc tính thương hiệu và đối tượng khách hàng nhắm tới của sản phẩm mà các nhà tài trợ sẽ chọn một cách thức nào cho phù hợp. Cả hai hình thức tài trợ này đều được khai thác triệt để trong phim truyền hình Việt Nam. 
Tài trợ ở ta thường theo từng phim có nội dung kịch bản phù hợp và đối tượng khán giả phù hợp với sản phẩm đó. Bởi vậy, nhà sản xuất phim chủ động chọn lọc đối tác tài trợ và gửi kịch bản phim đến chào mời. Chỉ những công ty lớn ở Việt Nam mới có một vài công ty (chuyên về quảng cáo và truyền thông) để thuê đánh giá kịch bản, phân khúc khán giả; còn lại phần lớn các công ty đều giao cho bộ phận marketing hay quảng cáo tự thẩm định kịch bản. Thông thường nhà tài trợ sẽ đọc trước kịch bản để tìm những tình huống, những cảnh phim có thể lồng hình ảnh sản phẩm, thương hiệu của mình vào.Ví dụ như các loại nước uống cao cấp chỉ thích hợp xuất hiện trong các quán bar sang trọng; trong khi nước uống đóng chai hay nước ngọt thì có thể xuất hiện thoải mái trong các quán giải khát bình dân. Nếu không thể tìm được chỗ xuất hiện hợp lý sẵn có, nhà tài trợ yêu cầu phía nhà sản xuất (tác giả kịch bản, đạo diễn) tạo ra những tình tiết mới để sản phẩm được xuất hiện. Ví như, bộ phim Cuộc gọi lúc 0 giờ đã “sáng tác” thêm nhiều chi tiết cho chiếc điện thoại Nokia trở thành một nhân vật quan trọng xuất hiện liên tục trong phim. Hay có nhiều trường hợp kịch bản ban đầu có bối cảnh chính và câu chuyện xảy ra ở công ty sản xuất sản phẩm X, nhưng khi có sản phẩm Y tài trợ thì nhà sản xuất sẽ thay đổi, chỉnh sửa lại cho phù hợp. Nói về lợi ích của hình thức quảng cáo trong phim, một nhà sản xuất cho biết: “PPL là hình thức quảng bá lặp lại cho thương hiệu. Người tiêu dùng không biết gì về chúng, nhìn thấy sản phẩm xuất hiện trên phim sẽ đặt câu hỏi rồi tò mò khám phá? Hay những người hâm mộ diễn viên, xem phim thấy diễn viên chọn sản phẩm ấy thì sẽ dùng theo...”.  
RẤT CẦN SỰ CHUYÊN NGHIỆP...
   Quảng cáo là yếu tố kích cầu cho sản xuất phim nói chung, và phim truyền hình nói riêng. Từ lâu khán giả ở ta đã quen với việc phim nước ngoài (Mỹ, châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc...) tràn ngập hình thức PPL sản phẩm trên phim, song họ đưa vào rất khéo, rất chuyên nghiệp, không lộ liễu, không phô trương và nhuyễn vào nội dung phim. Thời gian qua, phim Việt bị khán giả chê bai vì sự xuất hiện phô trương, lộ liễu, phi lý của các sản phẩm quáng cáo trong phim... Bộ phim truyền hình nọ có cảnh một gia đình vừa ăn cơm xong, ông bố rời bàn ăn đến mở tủ lấy ra một hộp nhỏ, rồi bật nắp lấy kẹo singum nhẩn nha chia cho mỗi người 2 viên ăn như tráng miệng, sau đó ông chú còn giành ăn kẹo với cậu cháu kéo dài đoạn phim này tới mấy phút. Ở một bộ phim truyền hình khác thì những chai dầu ăn của hãng nọ xếp như quầy hàng trong bếp của 5 căn hộ trong một chung cư – bối cảnh chính  của phim, một bà đi chợ xách theo cái làn cũng để sẵn một chai dầu ăn, bà mẹ sang thăm nhà con trai mang theo quà là chai dầu ăn và khi đưa quà thì quay cận cảnh khá lâu. Một số bộ phim như: Anh chàng vượt thời gian thì gần như bê nguyên xi (mà vụng về) nội dung TVC quảng cáo của một nhãn hàng trà thảo dược nổi tiếng vào câu chuyện chính của phim; Hai gia đình cũng có câu chuyện phim được thực hiện theo “đơn đặt hàng” của một hãng xe máy nổi tiếng... 
Một số đạo diễn thì than phiền bị “ép” đưa quảng cáo vào phim; áp lực về kinh phí nhiều khi buộc nhà sản xuất phải lồng quảng cáo vào phim bằng mọi giá theo yêu cầu của nhà tài trợ... Tuy nhiên, trừ một số nhà tài trợ quá khó chịu, còn thì đa số họ cũng không muốn điều này, vì có thể sẽ gây tác dụng ngược, đẩy sản phẩm đến chỗ bị khán giả ghét lây. Và cũng có nhiều nhà sản xuất cũng không thấy vui khi sản phẩm của một nhãn hàng nào đó xuất hiện tràn lan trên phim của mình. Nguyên nhân dẫn đến quảng cáo trong phim truyền hình ở ta bị chê là do sự thiếu chuyên nghiệp. Một nhà sản xuất cho biết: có nhiều đạo diễn rất ý thức được việc cả hai cùng có lợi nên lồng ghép sản phẩm khá kín đáo, phù hợp; nhưng cũng có nhiều đạo diễn (do làm ẩu hay non nghề) thì không tuân theo kịch bản phân cảnh, đặt sản phẩm quảng cáo trong phim rất tùy tiện, tràn lan... nên khi quay xong về dựng không cắt bỏ được. Một nhà sản xuất khác thì chia sẻ rằng, trước những đòi hỏi gắt gao của nhà tài trợ thì phải có sự thuyết phục, phân tích để họ hiểu sản phẩm xuất hiện như thế nào là phù hợp trong phim. Như thế, muốn PPL trong phim đạt hiệu quả về nghệ thuật và quảng bá thì đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các công ty, nhà sản xuất phim, đạo diễn và diễn viên, để tính toán kỹ càng trong việc đưa sản phẩm gì và “cài cắm” như thế nào vào phim, để khán giả không chê trách - một nhà sản xuất kết luận. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất mà tất cả các nhà sản xuất, nhà tài trợ đều đồng ý là: muốn có quảng cáo sản phẩm trong phim nhiều thì bộ phim truyền hình đó phải hay và đảm bảo thu hút được nhiều người xem.
Hiện nay để có được những hợp đồng PPL cho phim truyền hình Việt là một “thách thức” với các nhà sản xuất. Bởi lẽ: Thứ nhất là có quá nhiều sự cạnh tranh giữa hàng chục nhà sản xuất phim truyền hình. Các nhãn hàng lớn thường nhận được rất nhiều kịch bản từ các đơn vị sản xuất phim gửi đến chào mời. Khi chọn một nhà sản xuất nào đó, họ thường quan tâm đến: đề tài, ê kíp làm phim, năng lực và uy tín của nhà sản xuất, đối tượng khán giả chính của phim, giờ phát sóng... Thứ hai, phim Việt đang rơi vào vòng luẩn quẩn: đề tài và nội dung phim na ná nhau. Thứ 3 là có nhiều nhãn hàng tuy thích hình thức PPL nhưng lại ngại vì cách thực hiện, lồng ghép quảng cáo trong phim chưa tốt...
T.s Lê Thanh Minh
R&D Manager - Cửu Long Films

CỬU LONG FILMS - TỰ HÀO CỦA ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM

Được thành lập bởi đạo diễn gạo cội của Việt Nam đó là nhà báo - đạo diễn - Phan Hoàng, với nhiều thành công trong sự nghiệp đóng góp nghệ thuật điện Ảnh việt Nam với hàng loạt Phim được công chúng và dư luận đánh giá cao và cũng là một trong những người đã phát hiện và tạo nên nhiều diễn viễn xuất sắc cho làng điện ảnh Việt Nam hiện nay đáng kể đến đó là : Hiền Mai, Chi Bảo, Mỹ Uyên, Hữu Tiến, Nguyệt Ánh, Kim Ngân, Ngân Khánh,….trong các phim truyện như: 
+ Mầm sống (7 tập )    - TFS sản xuất năm 2005
+ Tài tử nghiệp dư       - TFS sản xuất năm 2002
+ Giao thời (20 tập)      - TFS sản xuầt năm 2000
+ Cu Tí và cô giáo Mai - TFS sản xuất năm 199
V.v...
Trong hơn 30 năm làm báo chí, nghệ thuật, Phan Hoàng đã đoạt không ít giải thưởng của Liên hoan phim truyền hình toàn quốc: huy chương vàng năm 1995 với phim “Cu Tí và cô giáo Mai”, huy chương bạc năm 2002 với phim “Tài tử nghiệp dư”, huân chương vì sự nghiệp báo chí 1975-2004… Bên cạnh đó ông còn nổi tiếng với những bộ phim tài liệu như: “Đất mũi Cà Mau” (1984), “Chuyện rừng mắm” (1986), “Thành phố Hồ Chí Minh đổi mới” (1989), “Trôi theo dòng đời” (1994)…. 
Và gần đây nhất là giải bạc tại liên hoan phim truyền hình lần thứ 28 năm 2009, tổ chức tại nha trang với bộ phim "Khát vọng đồng quê" dài 20 tập.
Với tâm huyết của người sáng lập-nhà báo, đạo diễn Phan Hoàng, hãng phim Cửu Long không ngừng phấn đấu từng ngày để mong đem đến cho các khán giả Việt Nam trong và ngoài nước những bộ phim hay nhất, những chương trình truyền hình bổ ích để không phụ lại lòng tin mà khán giả đã ưu ái dành cho Cửu Long Films chúng tôi. Xứng đáng với danh hiệu " CỬU LONG FILMS - NIỀM TỰ HÀO CỦA ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM"
T.s Lê Thanh Minh (Tony) 
                                                                                                   R&D Manager