Thứ Ba, 27 tháng 9, 2011

ĐOÀN LÀM PHIM “ANH HÙNG NGUYỄN TRUNG TRỰC” TẶNG CHIẾC TÀU ESPERANCE CHO SỞ VĂN HÓA – THỂ THAO VÀ DU LỊCH TỈNH KIÊN GIANG


Chiến hạm Esperance do Anh hùng Nguyễn Trung Trực đốt cháy tại Vàm Nhựt Tảo, Tân An cách đây 150 năm đã được Hãng phim Cửu Long tái dựng lại từ tư liệu của Viện bản tàng Paris. Chiếc hạm có chiều ngang 8m, dài 33m, với tổng kinh phí 1,5 tỉ đồng do tỉnh Kiên Giang và Hãng phim Cửu Long đầu tư thực hiện.

Chiến hạm Esperance đã được đoàn làm phim anh hùng Nguyễn Trung Trực kịp thời đưa về dự lễ hội kỷ niệm 143 năm ngày sinh của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.

Tại lễ hội, đoàn làm phim cũng đã hoàn tất những cảnh quay cuối cùng của bộ phim lịch sử dài 120 tập, dự kiến phát sóng trên HTV9 vào đầu tháng 1 năm 2012.
Đạo diễn Phan Hoàng cho biết: “Sau khi kết thúc lễ hội và các cảnh quay cuối cùng, hang phim Cửu Long sẽ trao tặng chiếc tàu lại cho Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Kiên Giang để làm truyền thống địa phương”.Chiếc tàu được trưng bày tại đình Cụ Nguyễn Trung Trực

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

Quảng cáo ở tỉnh nên chọn loại hình nào?

Hơn 85% số người được khảo sát bảo rằng họ xem TV hằng ngày, xem nhiều nhất 3 thể loại: tin tức, phim bộ và phim lẻ. Các kênh truyền hình có nội dung phù hợp với địa phương thường được xem nhiều. Truyền hình Việt Nam (VTV) có ảnh hưởng mạnh ở miền Bắc và miền Trung, Truyền hình TP HCM (HTV) chiếm thị phần cao ở Đông Nam Bộ trong khi Truyền hình Vĩnh Long dẫn đầu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Xu hướng sử dụng truyền hình cáp ngày càng tăng, đặc biệt ở vùng Đông Nam Bộ (49%) trong khi ở các tỉnh miền Bắc, có đến 54% sử dụng truyền hình cáp và kỹ thuật số.
Việc sử dụng Internet hàng ngày chiếm 30 - 49% người tiêu dùng Việt Nam sống ở thành thị thuộc 4 vùng: Đồng bằng Bắc bộ, miền Trung, Đông Nam Bộ và miền Tây, để đọc tin tức, tìm kiếm thông tin, nghe nhạc và gửi nhận thư điện tử, tương tự như ở các thành phố lớn.
Với độ phủ 54%, quảng cáo trên báo chí vẫn thu hút được nhiều sự quan tâm. Hơn hai phần ba độc giả cho biết có xem quảng cáo trên phụ trương của các tờ báo thông dụng ở Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Trung.
Khảo sát đã cho kết quả ngược lại với giả thuyết, người dân ở tỉnh sẽ nghe radio nhiều hơn so với người dân ở những thành phố lớn. Chỉ có 21% số người được khảo sát cho rằng họ đã nghe radio trong tuần gần nhất, so với 22% ở 6 thành phố lớn. Sự thiếu vắng các chương trình có chất lượng là nguyên nhân chính dẫn đến việc thính giả rời bỏ thói quen nghe radio.
Thói quen sử dụng phương tiện truyền thông ở tỉnh có nhiều điểm giống, hơn là trái ngược, so với 6 thành phố lớn. Qua những nhận định từ các khảo sát thường xuyên thực hiện ở thành phố lớn, thói quen sử dụng phương tiện truyền thông ở tỉnh sẽ thay đổi và theo kịp bước tiến nhanh của nền kinh tế cả nước.
Những phát hiện từ dự án Gamma không chỉ mang lại cho ngành sự tái khẳng định về sức mạnh của việc ra quyết định khi có đủ thông tin, mà còn giúp các nhà quảng cáo tiết kiệm ngân sách đáng kể khi hiểu được những khoản đầu tư của mình và mang lại hiệu quả đến đâu.

Tổng quan thị trường truyền thông Việt Nam

Thị trường truyền thông xuất hiện từ đầu những năm 1990 với những TVC quảng cáo đầu tiên xuất hiện trên HTV7 về những nhà may Tí, nhà may Tèo hay nhà may Cao Minh, nhà may Chương trên VTV, mở ra một thị trường quảng cáo truyền hình đầy tiềm năng. Sau gần 20 năm phát triển, thị trường quảng cáo truyền hình đã thay đổi đáng kinh ngạc. Chỉ tính riêng doanh số quảng cáo của các đài truyền hình con số này là 300 triệu USD/năm, còn tốc độ chi phí dành cho quảng cáo tại Việt Nam luôn đạt từ 15%-20% trong 5 năm trở lại đây. Không những thế, theo TNS, 90% dân số thường xuyên xem truyền hình trong đó 80% lượng khách hàng tin tưởng vào các thông điệp quảng cáo qua truyền hình. Điều này chứng tỏ quảng cáo truyển hình vẫn là kênh quảng cáo hiệu quả nhất hiện thời và còn duy trì vị thế của mình ít nhất trong nhiều năm tới.
Với tiềm năng như vậy, thị trường truyền thông Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng nhưng tương đối hỗn loạn do chạy theo lợi nhuận và mức độ ảnh hưởng. Phần phát sóng, kênh trực tiếp tới khán giả truyền hình có tới 68 Đài truyền hình phát sóng analog với khoảng 75 kênh sóng. Không những thế, theo những giải pháp công nghệ của thời đại, các kênh phát digital hay cable cũng phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc như VTC với công nghệ kỹ thuật số mặt đất; VTV, HTV và một vài Đài truyền hình địa phương khác như Hà Nội, Bình Dương, Hải Phòng… đều triển khai hệ thống cable. Ngoài ra VTV còn có thêm dịch vụ DTH với công nghệ kỹ thuật số vệ tinh phục vụ cho đồng bào vùng sâu, vùng xa mà sóng analog hay các công nghệ khác không vươn tới được. Phần hậu cần cho việc phát sóng, từ sản xuất chương trình đến tìm kiếm nhà tài trợ, mới thực sự bùng nổ các công ty tham gia với tên chung là các công ty Media, một cầu nối giữa đài truyền hình với các doanh nghiệp tài trợ, nguồn sữa chính nuôi Đài truyền hình bên cạnh các trợ cấp từ ngân sách nhà nước. Mỗi công ty đảm nhận một hoặc một vài công đoạn trong quá trình thực hiện một chương trình và cạnh tranh với nhau trong sự hỗn loạn. Nếu như các đài truyền hình, sự cạnh tranh là khốc liệt và rõ nét thì các công ty media thực sự chưa nhận diện được các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Tất cả dường như lao vào một vòng xoáy chung, rõ ràng bị nhiều áp lực đến từ nhiều phía nhưng lại không nhận diện được đối thủ, đâu là trực tiếp và đâu là gián tiếp. Do vậy, rất cần một bản đồ thị trường rõ nét để mô tả thị trường truyền thông:


Photobucket


Photobucket

Sơ đồ này chia thị trường truyền thông thành ba phần: (1) Đài truyền hình; (2) Công ty truyền thông và (3) Doanh nghiệp tài trợ. Bổ trợ cho ba phần này là các công ty khảo sát và đánh giá thị trường. Các công ty khảo sát và đánh giá thị trường sẽ nhận đơn đặt hàng từ các doanh nghiệp tài trợ, để phân tích các xu hướng thị trường, các đặc tính của nhu cầu khách hàng của mình để lựa chọn các chương trình quảng bá hợp lý thông qua truyền thông, quảng cáo báo chí hay thông qua truyền hình… Các công ty truyền thông đặt hàng doanh nghiệp khảo sát nhằm thực hiện các khảo sát sâu thống kê nhu cầu người xem truyền hình, nhu cầu thưởng thức từng loại chương trình mà công ty theo đuổi… nhằm tạo ra các chương trình hợp ý người xem truyền hình nhất. Các đài truyền hình thì theo đuổi các số liệu về mức độ phủ sóng, gu giải trí của người xem truyền hình, nhu cầu tổng thể của người xem truyền hình để đưa ra các chiến lược phát triển phù hợp cho đài mình.
1. Đài truyền hình
Do đặc tính kinh tế - chính trị, mỗi tỉnh của Việt Nam đều có một Đài truyền hình cộng với một đài truyền hình quốc gia (VTV). Ngoài ra còn có thêm một vài đài truyền hình phát triển dựa trên các công nghệ mới nhưng vẫn tuân thủ định hướng tuyên truyền của Chính phủ như Đài truyền hình kỹ thuật số VTC… Về tương quan thị trường Đài truyền hình Việt Nam là tiếng nói của Chính phủ Việt Nam. Do vậy đây là đối thủ lớn nhất cạnh tranh trực tiếp với các đài còn lại dù ở các mức độ khác nhau. Xét từ góc độ VTV, VTV bị cạnh tranh ở ba mức:
(i) Cạnh tranh giữa VTV - HTV: Cạnh tranh giữa VTV và HTV là cạnh tranh giữa hai đối thủ lớn nhất trên thị trường. Sự cạnh tranh này đã có từ rất lâu và mang nhiều màu sắc vùng miền cũng như chính trị. HTV mang nhiều hơi thở thị trường hơn, gần với nhu cầu người xem truyền hình hơn và có định hướng phát triển thị trường rất rõ nét nhưng bị hạn chế về vùng phủ sóng analog nên không thể tiếp cận thị trường dưới góc độ quốc gia. Bởi vậy HTV chỉ có thể phát triển cực thịnh ở khu vực phía Nam mà không thể tạo ảnh hưởng với các vùng miền khác. Tuy nhiên khu vực phía Nam mà đặc biệt Tp Hồ Chí Minh là khu vực tập trung phần lớn các Doanh nghiệp tài trợ, do vậy HTV phát triển rất mạnh và đang chuyển thị trường hướng ra nước ngoài mà trước mắt là các nước lân cận như Lào hay Campuchia. Với VTV, do đặc tính của một Đài quốc gia phủ sóng toàn quốc, đã hạn chế được tầm ảnh hưởng của đối thủ lớn nhất HTV nên có rất nhiều khoảng trống để phát triển thị trường. Có nhiều lợi thế lớn cả về đầu tư, truyền thống lẫn ảnh hưởng chính trị (về bản chất VTV là một Bộ thông tin của Việt Nam) nên VTV thu hút được khá nhiều nhân tài. Tuy nhiên VTV thường phải dùng các chương trình trên "tiếng phổ thông chuẩn giọng Hà Nội" nên ảnh hưởng của VTV đối với khán giả truyền hình phía Bắc rất tốt nhưng lại không gây được nhiều ấn tượng với khán giả phía Nam do sự khác biệt về vùng miền và giọng nói. Bởi vậy, trên thị trường phía Nam VTV kém ảnh hưởng hơn đối với HVT cho dù VTV có tập người xem không nhỏ là những người Bắc di cư vào Nam. Tuy nhiên, gần đây, có một xu hướng rõ nét là VTV chuyển mình nhiều hơn, hướng tới nhiều chương trình phục vụ cho thị trường phía Nam với các MC giọng Nam và gu thưởng thức "Nam hóa" hơn mà có thể ví dụ với các chương trình "Ai là ai" hay "Tam sao thất bản"…
(ii) Cạnh tranh giữa VTV - VTC: Cạnh tranh giữa VTV và VTC chỉ xuất hiện trong vài năm gần đây bởi lẽ rất đơn giản: VTC mới ra đời. Tuy nhiên cuộc cạnh tranh giữa VTC là tương đối khốc liệt với những xung đột nảy lửa ở rất nhiều sự kiện như World Cup, AFF Cup… VTC với lợi thế đường trục cáp quang Bắc - Nam đã phát triển dịch vụ kỹ thuật số mặt đất (terrestrial digital) có khả năng phát sóng toàn quốc thông qua một thiết bị đầu cuối được VTC cung cấp hoặc bán trôi nổi ngoài thị trường. Không những thế VTC còn sở hữu VTC1 phát analog trên toàn quốc tuy chưa được công nhận chính thức nhưng tiềm ẩn một sức cạnh tranh không nhỏ. Điểm mạnh của VTC là những chương trình hướng tới giới trẻ, khát vọng thể hiện mình và đặc biệt là hậu thuẫn từ Bộ bưu chính viễn thông. Sức ảnh hưởng của VTC trên thị trường khu vực phía Bắc là tương đối tốt đặc biệt trong khu vực Hà Nội nhưng ở thị trường phía Nam là khá nhỏ. Tuy nhiên, nếu so với VTV sự ảnh hưởng của VTC ngay trên thị trường chính, khu vực Hà Nội là khá chênh lệch do những thói quen truyền hình của người dân. Không những thế việc thực hiện chiến lược giảm giá quảng cáo khá tùy tiện đã làm thiệt hại không chỉ về hình ảnh cho VTC mà cả về doanh số quảng cáo VTC cũng không đạt được những mục tiêu mong muốn.
(iii) Cạnh tranh giữa VTV - Đài truyền hình địa phương: Theo pháp lệnh, toàn bộ các Đài địa phương có nhiệm vụ phải tiếp sóng đầy đủ 45 phút bản tin thời sự của VTV1. Vì vậy, dù sau này các kênh khác của VTV cũng lên sóng vệ tinh, nhưng các Đài địa phương hiểu rằng, ngoại trừ 45 phút thời sự từ 19h - 19h45, việc tiếp sóng các nội dung khác của VTV, bao gồm cả quảng cáo là tùy hỷ, không bắt buộc. Điều này dẫn đến việc các Đài địa phương thường chọn tiếp chương trình hay của VTV (đặc biệt là VTV3), nhưng ngồi canh đến lúc phát quảng cáo thì ngưng tiếp sóng mà chuyển qua phát quảng cáo của mình. Nếu không làm vậy thì các Đài địa phương không thể có nguồn thu và không có nguồn thu thì không thể cải thiện cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, nội dung chương trình… Do vậy việc cạnh tranh giữa VTV với các Đài địa phương gián tiếp hơn và khó kiểm soát hơn. Cái mất rõ ràng của VTV là quảng cáo nhưng bù lại ảnh hưởng các chương trình của VTV lại tăng và như vậy hiệu quả của các gói tài trợ cũng tăng lên tương ứng. Để giảm sức ép cạnh tranh này, VTV chọn một số Đài địa phương để hỗ trợ. Đổi lại Đài này sẽ hoạt động một phần như một Đài trực thuộc VTV.
Bảng sau đây thể hiện mức độ ảnh hưởng của các kênh truyền hình tại bốn thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ xét dưới góc độ vùng phủ sóng và khả năng nhận biết của người xem thông qua câu hỏi "Gia đình bạn bắt được ít nhất một sóng của kênh nào?"


Rõ ràng trên thị trường Hà Nội, VTC1 có ảnh hưởng khá lớn với 72% người tiếp được sóng cũng như nhận biết được sự tồn tại. Tuy nhiên con số này ở thành phố Hồ Chi Minh chỉ là 53.7%. Tương tự HTV7 và HTV9 có số người biết đến ở Sài Gòn tương ứng là 100% và 99,8% nhưng tại Hà Nội HTV7 hoàn toàn không được biết đến trong khi HTV9 chỉ có 56,3% người. Chỉ có VTV luôn duy trì được người biết ở mức độ cao (ít nhất là 98%) cho các kênh sóng của mình.
Một yếu tố nữa cần được tính đến là việc thay đổi tư duy của người xem truyền hình. Tỷ lệ người xem truyền hình analog dẫu vẫn ở mức cao nhưng xu hướng chấp nhận các hình thức xem trả tiền (pay view) như MMDS, Cable hay đầu tư một máy thu tín hiệu (set-top box) để thu truyền hình kỹ thuật số để xem được nhiều kênh truyền hình hơn là ngày càng rõ né, đặc biệt tại các thành phố lớn. Bảng sau đây thể hiện mức độ sử dụng công cụ bắt sóng tại bốn thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ.

Photobucket
Nguồn: Khảo sát của TNS cho TVPlus 2007


Rõ ràng antenna bắt sóng analog đang mất dần ảnh hưởng của mình tại các thành phố lớn khi chỉ chiếm 51.9% người sử dụng. Trong khi đó số người sử dụng cable lên tới 48.2%. Đây là một thay đổi đáng chú ý để nắm bắt các xu hướng trong tương lai khi các vùng nông thôn chuyển dần thành thành thị.
2. Công ty truyền thông:
Nếu như các công ty truyền thông trên thế giới đang ở giai đoạn liên minh, sát nhập để trở thành các tập đoàn thì các công ty truyền thông trong nước lại đang phát triển mạnh về số lượng và hỗn loạn theo kiểu nhà nhà làm media, nhà nhà làm chương trình truyền hình. Chúng ta có thể kể tới hàng loạt các công ty media như TVPlus, FPT, Goldsun, VietBa… với rất nhiều sắc thái và mức độ ảnh hưởng khác nhau. Tuy nhiên về bản chất hoạt động truyền thông của các công ty truyền thông chỉ gói gọn trong 3 chức năng: (i) Sáng tạo chương trình (tìm kiếm hoặc xây dựng các format chương trình), (ii) Sản xuất chương trình và (iii) Tìm kiếm quảng cáo và tài trợ. Tùy từng mức độ mạnh yếu hay chuyên sâu của mình mà các công ty truyền thông thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trên và thực sự chỉ quan tâm đến các kênh chính như VTV1,2,3 hay HTV7,9 hay một số Đài địa phương mạnh như Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng... Ngoài ra sự xuất hiện của các công ty này trên các đài địa phương khác là rất ít. Do vậy, về căn bản việc cạnh tranh giữa các công ty truyền thông trên sóng truyền hình chỉ diễn ra trên một khoảnh khá nhỏ. Vì thế có một đặc điểm chung tất cả đều phải có mối quan hệ với VTV hoặc HTV, nơi sóng chương trình được nhiều người quan tâm nhất. Để chen chân sản phẩm của mình vào giờ phát sóng, đặc biệt là trong khung giờ vàng trên các kênh này chỉ có các công ty thực sự mạnh và có mối quan hệ sâu sắc với các lãnh đạo mới có thể thực hiện. Không những thế, do bị hạn chế về thời gian phát sóng nên các công ty Media luôn phải chịu thiệt thòi khi thực hiện các hợp đồng với Đài truyền hình. Nếu chương trình không bán được tài trợ hay quảng cáo không đủ các công ty media phải chấp nhận rủi ro. Nếu chương trình thu hút được người xem quan tâm, có thể bán được nhiều quảng cáo các công ty vẫn chỉ có thể bán quảng cáo trong khung giờ của mình, ngoài giờ các quảng cáo của nhà đài sẽ chen thêm vào. Đó là một lợi thế không nhỏ của bên được quyền phát sóng.
3. Các nhà doanh nghiệp tài trợ:
Rõ ràng ngành truyền thông không thể tồn tại nếu không có các doanh nghiệp tài trợ. Chi phí quảng cáo của các doanh nghiệp sản xuất, thương mại chính là mảnh đất cho ngành truyền thông phát triển. Xu hướng thế giới chuyển dần các hoạt động quảng cáo sang hoạt động quảng bá. Các hoạt động quảng cáo (TVC, quảng cáo báo chí, quảng cáo outdoor) thường mang tính trực diện và khiên cưỡng dù nhiều quảng cáo khá hay và giàu chất trí tuệ. Do vậy hiệu quả của quảng cáo ngày càng giảm. Các doanh nghiệp có xu hướng quảng cáo gián tiếp hơn, chuyển từ phiên bản "mind share" chiếm lấy tâm trí của khách hàng sang phiên bản "heart share" chiếm lấy tình cảm của khách hàng. Điều này giúp cho thương hiệu của các doanh nghiệp tài trợ len lỏi một cách dễ dàng và ghi nhớ sâu hơn trong tâm trí người tiêu dùng. Các hoạt động các công ty trên thế giới đang hướng tới là các hoạt động tài trợ chương trình, tài trợ các sự kiện… tương ứng tùy theo tầm vóc công ty và văn hóa thị trường công ty muốn xâm nhập. Tuy nhiên ở Việt Nam, các doanh nghiệp còn khá nhỏ nên vẫn còn mảnh đất rất rộng cho quảng cáo, đặc biệt là các TVC truyền hình phát triển. Bên cạnh đó, vẫn có thể khai thác tốt các chương trình tài trợ thông qua các tập đoàn nước ngoài miễn là tạo ra được một chương trình hay hình ảnh một công ty truyền thông gây ấn tượng.

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Sắp hoàn tất 20 tập phim anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực


Ngày 15-9, đạo diễn Phan Hoàng cho biết, hiện tại đoàn làm phim anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (hãng phim Cửu Long) đang chuẩn bị quay những cảnh cuối cùng của bộ phim này tại sông Cái Lớn (huyện An Biên, Kiên Giang).

Theo đạo diễn Phan Hoàng, phần còn lại của bộ phim là cảnh nghĩa quân do Nguyễn Trung Trực lãnh đạo đốt tàu Espérance (Hi vọng) của Pháp trên sông Nhật Tảo (nay thuộc tỉnh Long An). Đây là một cảnh lớn, quan trọng nhất của phim, cảnh này sẽ được thực hiện từ 7-10 ngày. Tái hiện lại con tàu là việc cực khó, tốn 1,5 tỉ đồng trong số kinh phí làm phim. Trong vòng 9 tháng, chúng tôi đã nhờ Bảo tàng Paris tìm tư liệu, thuê chuyên gia Pháp, phục chế tàu thành công khoảng 90%. Về phần phục trang, các loại vũ khí chúng tôi tìm hiểu từ nhiều nguồn.
Đạo diễn Phan Hoàng cho biết thêm, đáng lý ra cảnh này quay tại Long An, là nơi có dòng sông Nhật Tảo chảy qua. Nhưng đoàn làm phim quyết định chọn quay tại Kiên Giang là nhằm thể hiện được cái tình với người dân nơi đây. Sau khi quay xong cảnh cuối, đoàn phim dự kiến sẽ trao lại cho tỉnh Kiên Giang con tàu “Hi Vọng” để trưng bày như một hiện vật giàu tính lịch sử, góp phần giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống anh hùng của dân tộc ta. Trước mắt, đoàn phim đã trao đổi với Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch Kiên Giang về dự kiến sẽ đưa con tàu này về trưng bày phục vụ bà con đến viếng cụ Nguyễn nhân ngày giỗ thứ 143 bắt đầu từ 22-9 tới./.

Hơn 1,5 tỷ đồng phục chế tàu Espérance cho bộ phim về Anh hùng Nguyễn Trung Trực

Theo đạo diễn Phan Hoàng, việc tái hiện con tàu Espérance là việc cực khó, tốn 1,5 tỉ đồng trong số kinh phí làm phim về Thủ lĩnh kháng Pháp - Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Đoàn làm phim phải mất 9 tháng cùng với sự giúp đỡ của Bảo tàng Paris và nhiều chuyên gia Pháp, phục chế tàu thành công khoảng 90%... 

Đạo diễn Phan Hoàng - Giám đốc Hãng phim Cửu Long cho biết đoàn làm phim về Thủ lĩnh kháng Pháp - Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, đang chuẩn bị quay những cảnh cuối cùng - cũng là cảnh quay quan trọng nhất của bộ phim tại sông Cái Lớn (huyện An Biên, Kiên Giang). Với khoảng thời gian 7 - 10 ngày, đoàn làm phim sẽ hoàn tất quay cảnh nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đốt tàu Espérance (Hi vọng) của Pháp trên sông Nhật Tảo vào năm 1861.
"Đáng lý cảnh này sẽ được quay tại Long An, là nơi có dòng sông Nhật Tảo chảy qua. Nhưng đoàn làm phim quyết định chọn quay tại Kiên Giang là nhằm thể hiện được cái tình với người dân nơi đây" - đạo diễn Phan Hoàng cho biết thêm.
Vẫn theo lời đạo diễn Phan Hoàng, việc tái hiện con tàu Espérance là việc cực khó, tốn 1,5 tỉ đồng trong số kinh phí làm phim. Đoàn làm phim phải mất 9 tháng cùng với sự giúp đỡ của Bảo tàng Paris và nhiều chuyên gia Pháp, phục chế tàu thành công khoảng 90%. Trước mắt, nhân ngày giỗ thứ 143 của cụ Nguyễn (từ 22/9 tới), con tàu được đưa về TP. Rạch Giá trưng bày để phục vụ người dân thập phương đến viếng cụ. Sau khi quay xong cảnh cuối, đoàn phim dự kiến sẽ trao lại con tàu này cho tỉnh Kiên Giang.
Được biết, bộ phim về Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực dự kiến có 20 tập. Hãng phim Cửu Long thực hiện theo đơn đặt hàng của HTV, khởi quay 20/4/2011, người mẫu - diễn viên Lý Anh Tuấn được chọn vào vai Nguyễn Trung Trực. Bộ phim dự kiến trình chiếu trên HTV, VTV và nhiều đài truyền hình địa phương vào Quí I /2012

Đạo diễn Phan Hoàng và phim “Anh hùng Nguyễn Trung Trực”

Ngưỡng mộ vị thủ lĩnh của nông dân

Bộ phim “Anh hùng Nguyễn Trung Trực” đang được Hãng phim Cửu Long hoàn thành những cảnh quay cuối cùng. NTNN đã trò chuyện với đạo diễn Phan Hoàng về bộ phim lịch sử này.

Chuyện làm phim lịch sử thường là một “nghĩa vụ” của các hãng phim Nhà nước, Cửu Long là một hãng phim tư nhân, tại sao anh với tư cách Giám đốc lại quyết định đầu tư vào dự án này?
- Bản tính của tôi là một người ưa làm việc khó, nếu để làm một bộ phim nhà lầu xe hơi, tình yêu tay ba tay tư dễ thu hút quảng cáo thì tôi không hứng thú chút nào vì xét đến cùng nó “vô thưởng vô phạt”. Chúng tôi quyết định đầu tư cho dự án này bởi ngưỡng mộ hình ảnh của Anh hùng Nguyễn Trung Trực - vị thủ lĩnh phong trào nông dân khởi nghĩa trong thời kháng chiến chống Pháp.
Cảnh phim “Anh hùng Nguyễn Trung Trực”.
Bộ phim là bức chân dung ông được khắc họa bằng những chiến công oanh liệt từ "Hỏa hồng nhật tảo oanh thiên địa - Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần" cho đến khi ra Côn Đảo, bị bắt và bị hành hình tại Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang). Chúng tôi hy vọng qua bộ phim này, khán giả trẻ sẽ không lãng quên những trang sử vàng của dân tộc.
Đạo diễn Phan Hoàng
Tiến độ làm phim hiện nay ra sao, đoàn phim có gặp khó khăn gì không?
- Hiện nay, chúng tôi đã quay xong tập 19, dự kiến trước tháng 12 năm nay, phim sẽ được hoàn thành và bàn giao cho Đài Truyền hình TP.HCM. Nói về những khó khăn của một đoàn làm phim lịch sử thì kể bao nhiêu cũng không hết. Để tránh những khung cảnh hiện đại, chúng tôi phải vào những nơi thật sâu, ít người đặt chân tới để quay, bối cảnh phải phục dựng vô cùng tốn kém vì chẳng có trường quay, quay xong lại phải dỡ bỏ vì đó đâu phải đất của mình.
Đoàn làm phim liên tục di chuyển từ Kiên Giang đến biển Phước Hải, Khu du lịch Suối Tre - Vũng Tàu để thực hiện những cảnh vây ráp, đánh trận với số lượng diễn viên lên đến hàng trăm người. Tính toán sao cho vừa đảm bảo nghệ thuật lại vừa đảm bảo phim không bị “đội” kinh phí lên quá nhiều là một đau đầu. Chỉ riêng chiếc tàu chiến L’Espérance của thực dân Pháp từng bị Nguyễn Trung Trực đốt cháy được phục dựng trong phim cũng đã ngốn tới gần 1 tỷ đồng.
Sau phim này, anh có kế hoạch nào chưa?
- Khi phim “Anh hùng Nguyễn Trung Trực” hoàn thành, tôi sẽ bắt tay vào làm 35 tập phim “Mùa lá đỏ”, sau đó là dự án phim 40 tập “Bình Tây Đại nguyên soái” làm về Anh hùng Trương Định. Tôi thực sự cảm thấy hứng thú với dòng phim lịch sử bởi ít ra những thước phim của mình làm ra cũng có tác động phần nào tới người xem về lòng tôn kính tiền nhân, những người đã xả thân làm nên lịch sử.
Xin cảm ơn anh!

Đạo diễn Phan Hoàng: Làm phim về những người chân đất

Trong khi hầu hết các hãng phim tư nhân say sưa với những bộ phim về giới trẻ thành thị hay những chuyện tình tay ba, tay tư thì có một hãng phim chọn đề tài xã hội để “mở hàng” vệt phim truyện dài tập. Đó là Hãng phim Cửu Long (Cửu Long Film) với bộ phim Khát vọng đồng quê (KVĐQ, 20 tập x 45 phút, kịch bản Minh Viên, đạo diễn Phan Hoàng, HCB LH Truyền hình toàn quốc 2009), phát sóng trên kênh Today TV vào 21 giờ thứ Hai và Ba hàng tuần, bắt đầu từ tối qua, 13/4. Nhân dịp này, TT&VH trò chuyện với đạo diễn Phan Hoàng - Giám đốc Cửu Long Film.
* Đương đầu với đề tài xã hội vừa vất vả, tốn kém, khó thu hút quảng cáo lại dễ đụng chạm nên thường thì hãng phim nhà nước mới mặn mà. Cửu Long Film hướng vào đề tài nông thôn chắc có lý do riêng?
- Đề tài đời sống thành thị được các hãng phim khác khai thác quá nhiều, trong khi một bộ phận lớn trong dân cư là nông dân. Vì thế, Cửu Long xác định rõ, khai thác đề tài về nông dân, nông nghiệp, nông thôn miền Nam là thế mạnh của hãng. Cửu Long tự thấy có trọng trách giới thiệu bức tranh đời sống nông thôn miền Nam, qua đó góp phần nhắc nhở mọi người đừng quên cội nguồn và những giá trị truyền thống tốt đẹp... Chúng ta đang sống chủ yếu nhờ hạt lúa và những nông sản của đồng bằng sông Cửu Long. Làm phim về những người chân đất là gửi lòng tri ân đến cội nguồn quê hương, dân tộc.
Đạo diễn Phan Hoàng
* Nhắc tới đề tài nông thôn là người xem hay nhớ tới nông thôn miền Bắc. Ngoài Bắc, những bộ phim về nông thôn Bắc bộ dường như trở thành “đặc sản” của Trung tâm Sản xuất phim truyền hình - Đài THVN. KVĐQ còn nhấn mạnh đến những đặc trưng nào của đất và người nông dân Nam bộ?
- Nói đến nông thôn Nam bộ là nói đến khát vọng từ ngàn đời nay: khát vọng sống khi đi tìm vùng đất mới, chinh phục thiên nhiên để đổi đời của ông cha. Còn bây giờ là khát vọng tri thức - khát vọng bức thiết nhất của các vùng quê... Người nông dân trong KVĐQ là nông dân của thời hội nhập. Họ có đủ thông tin để nhận biết rằng: muốn có chất sống cho vùng đất mới thì rất cần đến tri thức. Tri thức là là điều quan trọng. Một lão nông trong phim đã nói: “Quê mình không thiếu cái ăn mà thiếu cái chữ. Có chữ nghĩa đầy đủ con mới giúp được cho nhiều người”.
* Phim về đề tài xã hội thường chuyển tải những thông điệp nóng hổi được nhiều người quan tâm. Cửu Long Film muốn gửi gắm điều gì qua bộ phim này?
- Tôi mong người xem đừng ảo tưởng vùng đất Nam bộ giàu có nữa. Hãy thừa nhận thực trạng nghèo khó của nông dân Nam bộ hiện nay. Sự nghèo kém hết sức nghịch lý và cũng hết sức hợp lý. ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước, nguồn thủy sản lớn nhất khu vực, rừng ngập nước nguyên sinh quý hiếm của thế giới... nhưng vẫn còn nghèo: Thu nhập bình quân hiện nay của nông dân quê tôi (Cà Mau) chỉ vài trăm ngàn đồng/tháng, nhiều trẻ em mù chữ... Cái nghèo tồn tại hết sức nghịch lý như vậy. Còn cái nghèo dai dẳng... rất hợp lý, vì từ lâu, chúng ta bỏ quên vai trò tri thức trong việc khai thác và sử dụng những nguồn lực tự nhiên. Tầm tri thức quá thấp nên chưa đủ sức khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên đồ sộ của vùng quê Nam bộ. Chính vì vậy, trong phim KVĐQ luôn nhắc đến con chữ cho vùng đất này. Đó cũng là điều tôi muốn gửi gắm chân thành nhất.
* Xin cảm ơn anh và chúc Cửu Long Film thành công!

Cửu Long Phim - Làm truyền hình cho nông dân

Lặng lẽ và bền bỉ, với các chương trình Thời sự nông nghiệp, Nông sản Việt, Ra khơi đã thực hiện trên sóng truyền hình TP.HCM - HTV9.  Đã trãi qua biết bao nhiêu công khó của êkip thực hiệncũng là khoảng thời gian đầy chia sẻ của những người làm chương trình với bà con nông dân

Ghi hình một chuyên mục Hương đồng gió nội của chương trình Ra khơi - Ảnh: Cửu Long Films cung cấp
Khát vọng đồng quê
Những chương trình truyền hình về nông dân, cho nông dân của Đài truyền hình TP.HCM phối hợp với Hãng phim Cửu Long tổ chức thực hiện đã để lại dấu ấn của mình với khán giả không bằng sự hào nhoáng của những ngôi sao mà bằng những điều mộc mạc, chân thật.
Trong suốt hai năm phát sóng, 500 lá thư mỗi ngày của những người nông dân gửi đến hai chương trình đã gián tiếp hoặc trực tiếp làm thay đổi số phận của không ít người dân.
Thành phần đông nhất của dân số VN vẫn là nông dân nhưng dường như họ luôn đứng bên lề của cuộc sống hiện đại. Chương trình truyền hình cũng hiếm đề cập đến họ. Làm sao để có một chương trình hữu ích cho nông dân và thật sự chạm được vào đời sống của họ chứ không phải là những game show "đi qua" như cơn bão, mang đến những niềm vui cho một vài thành viên của làng xã rồi thôi.
Và 102 chương trình Nông thôn ngày nay (tên cũ là Tam nông) lúc 20g50 thứ ba hằng tuần trên sóng HTV9, Đài truyền hình TP.HCM đã chia sẻ với nông dân nhiều hơn phạm vi ảnh hưởng của một chương trình truyền hình. Nếu như ban đầu, vì lý do kinh phí, chương trình chọn điểm đến đầu tiên là các xã nghèo thuộc quận 9, huyện Bình Chánh, Củ Chi... (TP.HCM) để chia sẻ với bà con nông dân, thì đến nay chương trình đã đến với bà con các tỉnh lân cận như Bình Dương, Đồng Nai, Bình Phước và xa hơn về miền Tây Nam bộ: Cà Mau, Sóc Trăng...
Ngôn ngữ của phóng sự truyền hình với những lát cắt hiện thực - đôi khi nhói lòng người xem - đã ít nhiều tác động đến cơ quan địa phương và cuộc sống của người dân nơi đó phần nào được cải thiện.
Biên tập viên trẻ Minh Kha - người phụ trách mục phóng sự về những bức xúc ở nông thôn trong chương trình - chia sẻ: "Không đơn giản chút nào khi thực hiện những phóng sự về khó khăn, bức xúc của bà con. Không trồng trọt, sản xuất được vì nước bị ô nhiễm, đất nông nghiệp bị đưa vào dự án "treo", điện nước, cầu - đường - trường trạm có những vấn đề rắc rối mà bà con chẳng biết kêu ai... Nhưng tất cả vất vả của mọi người đều vơi đi sau mỗi tín hiệu phản hồi tích cực. Điều hạnh phúc nhất với chúng tôi là khi chương trình phát sóng xong, vài tháng sau quay trở lại, nhiều tiêu cực đã được khắc phục. Và bà con có cuộc sống mới: bãi rác được dọn, có điện, có nước sạch...".
Xót xa và cảm phục
Nếu Nông thôn ngày nay tác động đến đời sống của nông dân bằng các phóng sự thì Ra khơi (22g30, phát sóng thứ hai hằng tuần trên HTV9) có cách tiếp cận khác, trực tiếp hơn và cụ thể hơn đến những mảnh đời nông dân bất hạnh, nghèo khó. 140 chương trình được phát sóng cũng là lúc 140 số phận bất hạnh được sẻ chia bằng những đồng tiền chắt chiu của khán giả truyền hình cả nước.
Bắt đầu phát sóng từ năm 2007 đến nay, những chuyên mục Hương đồng gió nội, Chuyện làng quê trong Ra khơi đã bén duyên cùng khán giả truyền hình, để rồi từ đó những tấm lòng với nông dân được tiếp sức bằng chính người nông dân và đồng bào khác. Những gia đình nông dânTP.HCM và các tỉnh, thành Bến Tre, Long An, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Tiền Giang, Đồng Nai... đã nhận số tiền cần thiết để vượt qua bệnh tật hoặc khắc phục khó khăn tạm thời. Đến nay, Quỹ từ thiện Regina tài trợ cho chuyên mục Hương đồng gió nội đã trao 350 triệu đồng đến các hộ gia đình nông dân nghèo. Dù chỉ là khoản tiền nhỏ trong lúc túng ngặt nhưng cũng là cái chìa tay đúng lúc và đáng quý.
Biên tập viên Minh Ngọc - người trực tiếp đến từng hộ nông dân nghèo - cho biết: "Có những con người mà tôi gặp gây cho tôi những xúc cảm trái ngược. Vừa xót xa trước cảnh nghèo khó lại vừa trân trọng và cảm phục họ. Xót xa vì cái đói, cái nghèo vẫn đeo bám bà con nông dân. Cảm phục vì chính trong khó khăn ấy, nhiều người vẫn biết tự vươn lên để chống chọi, đấu tranh với bệnh tật. Đi cùng đoàn Hương đồng gió nội càng thấy trên đất nước mình vẫn còn nhiều người nghèo, nhiều số phận cần sự sẻ chia của cộng đồng".

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2011

KHÁN GIẢ VIỆT CHÊ PHIM VIỆT, VÌ SAO?

Mở các kênh truyền hình, không khó để biết có đến 90% lượng phim truyền hình Việt phát sóng hiện nay được thực hiện theo phương thức xã hội hóa. Hay nói cách khác, tư nhân làm phim, nhà đài bán sóng. Đã mất tiền mua (sóng) thì dĩ nhiên các nhà sản xuất phải bằng mọi giá thu hồi vốn và sinh lãi.

Ở Việt Nam, phim truyền hình chỉ mới xuất hiện khoảng hơn chục năm. Nếu như chỉ vài ba năm trước, chúng ta còn kêu ca màn ảnh nhỏ các đài truyền hình bội thực phim truyền hình Trung Quốc, Hàn Quốc…thì hiện nay, bật tivi lên là thấy phim Việt. Phim Việt tràn ngập mọi kênh, từ trung ương đến địa phương, từ các kênh xã hội hóa đến những kênh vẫn còn ghi rõ là "thử nghiệm".
Điều đó cho thấy chúng ta có một lực lượng sản xuất phim truyền hình hùng hậu, sẵn sàng cung ứng cho màn ảnh nhỏ một lượng lớn phim Việt, trong đó có công lớn của các công ty tư nhân, hãng phim tư nhân. Tuy nhiên, chính vì được ưu ái qua chính sách "giờ vàng", được khán giả quan tâm mà các nhà sản xuất đã vô tình thúc hối đứa con "chân yếu tay mềm" là phim truyền hình Việt Nam phải chạy, phải tăng tốc khi nó chưa đủ lực, chưa đủ sức.
Muốn vậy, họ phải làm phim thật dài để lấy quảng cáo. Câu chuyện chỉ gói gọn trong vòng 10 tập là giải quyết tất tần tật mọi mâu thuẫn nhưng vì lý do "lấy thu bù chi" nên phim phải kéo dài thành 20 tập, 30 tập, thậm chí 40 tập, 50 tập. Bột chỉ có bấy nhiêu mà phải làm ra số bánh gấp đôi, gấp ba thì thử hỏi làm sao không có chuyện "gian lận" như thêm nước, bắt bánh nhỏ hơn…
Nếu chú ý, mọi người sẽ thấy phim truyền hình Việt hiện nay thường có độ dài 30 tập trở lên. Các nhà sản xuất tư nhân mặc định đó là con số chuẩn, vì nếu ít hơn, có thể họ sẽ khó đạt đến điểm hòa vốn, chứ đừng nói đến chuyện có lãi.
Thế là tác giả kịch bản được yêu cầu phải "xé" ra nhiều tập, đạo diễn được đề nghị "giăng" ra thêm vài tập. Điều đó đồng nghĩa với việc số giờ phát sóng sẽ nhiều hơn, doanh thu quảng cáo sẽ cao hơn.
Tôi có một người bạn mất cả năm trời để hoàn thành một kịch bản dài 20 tập. Nhưng khi mang kịch bản đi chào, chẳng nhà sản xuất nào chịu đọc khi biết độ dài chỉ 20 tập. Bạn tôi được khuyên nếu muốn bán kịch bản thì phải xé thành 30 tập. Bạn tôi không đồng ý, thế là kịch bản tâm huyết đó đành nằm lại trên máy tính.
Kể ra chuyện này không phải để trách nhà sản xuất "vô tâm" với những kịch bản không đạt con số chuẩn 30 tập. Không ai dại dột bỏ hàng đống tiền sản xuất một sản phẩm mà họ biết chắc sẽ khó lấy lại vốn.
Với cách "mua bán" sóng như hiện nay, 20 tập quả là khó để nhà sản xuất mạnh dạn đầu tư, nên tốt nhất là cứ chọn kịch bản dài, còn vấn đề phim hay - dở không quan trọng vì nhà đài đâu có duyệt hết mấy chục tập phim. Điển hình như vụ lùm xùm Anh chàng vượt thời gian vừa qua, nhà đài chỉ làm động tác đọc duyệt đề cương và vài tập đầu, thấy ổn là… bán sóng, lên lịch chiếu dù bộ phim vẫn chưa làm xong.
Nếu đã chê đạo diễn, chê diễn viên, chê nhà sản xuất thì chúng ta cũng cần phải công tâm phê bình nhà đài. Tại sao nhà đài không đặt ra những điều kiện gắt gao hơn, kỹ lưỡng hơn trong việc duyệt phim? Nếu cứ theo cách duyệt hình thức như hiện tại thì làm sao tránh để "lọt lưới" những bộ phim 3D - dài, dai dở? Tại sao nhà đài không khuyến khích, tạo điều kiện cho các nhà sản xuất đầu tư những bộ phim ngắn tập nhưng nội dung hay, chất lượng?
Muốn phim truyền hình Việt cải thiện chất lượng, có nhiều phim hay thì chính nhà đài phải tích cực hỗ trợ cho các nhà sản xuất trong việc dành sóng, thậm chí là cho sóng để công chiếu những tác phẩm hay. Còn như nếu cứ giữ nguyên cách "thuận mua vừa bán" như hiện tại thì cậu bé "phim truyền hình Việt" cứ phải vắt giò lên cổ mà chạy theo số lượng, té ngã là điều không thể tránh khỏi!
TUẤN HUY
* Phim hay rất cần tình tiết
Muốn phim có nhiều tập thu hút được người xem thì phải xây dựng nội dung phim có nhiều tình huống hay thu hút người xem theo dõi phim đến cùng nhưng không thể bỏ qua tính chân thật, hợp lý (nhiều phim truyền hình Việt hiện nay có những đoạn như câu giờ để kéo dài được nhiều tập, xem rất chán). Nội dung phim phải có cái gì hay để cho khán giả sống với đời sống của nhân vật. Nội dung phim nên hướng nhiều đến đời sống với những mối quan hệ gia đình, cha mẹ, anh em… từ đó giúp cho khán giả có sự chiêm nghiệm, rút ra cho mình một điều gì đó, ví dụ như “xem phim Hàn sẽ hiểu hết được văn hóa Hàn”.

Nhập siêu văn hóa

Mới đây, một nhà hoạt động điện ảnh đã đưa ra con số: chỉ có 0, 14 phim cho 1 triệu dân Việt Nam, trong khi Malaysia là 1 triệu dân/1 phim, Hàn Quốc 1 triệu dân/2 phim. Tỷ lệ đó cho thấy số lượng phim truyện do Việt Nam sản xuất quá ít. Một đất nước 86 triệu dân mà mỗi năm chỉ sản xuất được trên 10 phim truyện là có vấn đề.
Vì sao nhập siêu?
Từng có những năm Việt Nam sản xuất được 20 bộ phim truyện nhựa. Thậm chí, năm 1992 còn sản xuất được hơn 30 phim. Thực tế trong 10 năm qua, điện ảnh trong nước có những khởi sắc. Từ 5 hãng phim quốc doanh, nay cả nước có hơn 40 hãng phim do tư nhân và các tổ chức xã hội quản lý, nhiều cụm rạp hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế đã được xây dựng, số người đến rạp xem phim từ năm 2003 đến 2008 tăng gấp hơn 2 lần, xã hội hóa trong sản xuất phim cũng đạt 50% về số lượng.

Tại một cuộc hội thảo mới đây, ông Lê Ngọc Minh - Cục phó Cục Điện ảnh cho rằng, nguyên nhân sản xuất quá ít phim là do Việt Nam chưa có một thị trường điện ảnh đa dạng, chưa có hạ tầng cơ sở thỏa mãn nhu cầu làm phim và sáng tạo của các nghệ sỹ điện ảnh, kinh phí làm phim tăng trong khi kinh phí đầu tư của nhà nước cho phim truyện nhựa không thay đổi. Các hãng phim tư nhân thì sản xuất cầm chừng và hầu như chỉ tập trung làm phim tết. Theo lý giải của ông Minh thì đó là nguyên nhân dẫn đến nhập siêu phim truyện.

Trước tình hình số lượng phim sản xuất trong nước quá ít và nhu cầu khán giả tăng, các nhà nhập khẩu có vốn nước ngoài hay vốn trong nước đã không bỏ qua cơ hội này. Cơ sở pháp lý để họ nhập tràn lan là Luật Điện ảnh trước khi được sửa đổi khá cởi mở. Số lượng nhập tăng hằng năm, trong đó năm 2009 nhập về 106 phim, năm 2010 tăng tới 130 phim. Phim nhập về chủ yếu là phim Mỹ ở đủ thể loại: hành động, tâm lý, viễn tưởng...

Ở mảng sách, dù được bày đầy trên các sạp song tìm mỏi mắt may ra mới thấy tác phẩm văn học mới. Nguyên do là nhuận bút quá thấp, một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang nhà xuất bản in 1.000 cuốn tác giả chỉ nhận được vài triệu đồng. Vì thế ngày càng ít người theo nghiệp văn chương, vừa vất vả, ít tiền, có khi không khéo lại còn mang vạ vào thân. Sách trong nước ít nên phải nhập nhiều là điều dễ hiểu. Trước khi Việt Nam ký Công ước Berne về bản quyền tác giả, số lượng tác phẩm văn học dịch lớn hơn rất nhiều vì các nhà xuất bản không bị bất cứ ràng buộc hay hạn chế nào. Sau khi tham gia công ước, các đơn vị xuất bản muốn in sách nước ngoài phải mua bản quyền. Không mua cố tình vi phạm, làm ẩu bán cả gia sản cũng không đủ tiền phạt. Hiện tại sách dịch chiếm khoảng 50% số sách xuất bản và 2/3 công việc của các đơn vị làm sách tư nhân và ít nhất trên 1/2 đầu sách xuất bản của các NXB lớn cũng đều là tác phẩm văn học dịch, phần còn lại là sách trong nước tái bản, các tác phẩm văn học kinh điển của thế giới đã hết thời hạn bảo hộ.

 Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, người từng làm việc nhiều với giới xuất bản Trung Quốc cho biết, không một NXB Trung Quốc nào có thông tin về văn học Việt Nam cũng như nhà văn Việt Nam. Đơn giản vì không NXB hoặc đơn vị xuất bản trong nước nào chào mời tác phẩm văn học Trung Quốc từ cổ điển đến hiện đại. Với các NXB phương Tây, số tác phẩm văn học Việt Nam dịch ra tiếng Anh hay ngôn ngữ khác cũng rất ít. Các tác phẩm giới thiệu trên trang web chỉ bằng tiếng Việt đã không tạo cơ hội cho các NXB nước ngoài tiếp cận để tìm hiểu. Thế nên văn học Việt Nam dịch ra tiếng nước ngoài và xuất bản, phát hành trên thị trường quốc tế rất thấp, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Việc dịch các tác phẩm văn học Việt ra các ngôn ngữ khác trước đây phần lớn được thực hiện một cách đơn lẻ, do quen biết, do mối quan hệ cá nhân, do sự yêu thích của dịch giả đối với tác phẩm hoặc tác giả của tác phẩm đó. Một NXB lớn và hoạt động lâu năm như NXB Trẻ lần đầu phát hành bản dịch tiếng Anh ra nước ngoài mới chỉ từ đầu năm 2010 (cuốn "Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ", tác giả Nguyễn Ngọc Thuần). Xuất ít làm cho cán cân nghiêng về phía nhập.

Vài năm trở lại đây, trung bình mỗi năm có khoảng 400 album nhạc phát hành tại thị trường Việt Nam, có ca sỹ ra tới 5 album/năm. Việt Nam cũng là quốc gia mà rất nhiều ca sỹ được phong "sao", tuy nhiên họ chỉ là "sao" nhỏ bé đơn lẻ; vào dạng "sao" xóm, "sao" làng. Không kể các chương trình mang tính giao lưu và trao đổi văn hóa do Nhà nước tổ chức thì ca sỹ hay các nhóm nhạc Việt Nam xuất ngoại chỉ biểu diễn cho Việt kiều, rất hiếm chương trình biểu diễn cho khán giả nước ngoài. Thế nhưng, các nhóm nhạc nước ngoài vào Việt Nam khá nhiều. Tính riêng trong năm 2011, có nhiều chương trình thương mại với giá vé cao, ví dụ như: Backstreet Boys, Bob Dyland, nhóm nhạc 2AM (của Hàn Quốc), David Cook...

Ngoài các sản phẩm được phép còn vô vàn các sản phẩm văn hóa nhập lậu thông qua các con đường khác nhau, từ đĩa nhạc, phim đến trò chơi...

Cái "được" từ nhập siêu
Vẫn theo dịch giả Nguyễn Lệ Chi, việc các tác phẩm văn học dịch được giới thiệu thường xuyên và đầy đủ sẽ cung cấp cho nhà văn, nhà phê bình văn học, các độc giả trí thức... trong nước cái nhìn khái quát về từng dòng văn học cùng những đặc điểm rõ nét của chúng. Không có gì sát thực hơn việc tìm hiểu từng dòng văn học qua chính những tác phẩm thuộc dòng này. Ví dụ qua các tác phẩm dịch, độc giả hiểu một cách cặn kẽ và cụ thể về dòng văn học Ling Lei (Trung Quốc), Fantasy (Mỹ), Chicklit (Mỹ, Anh)... Phần lớn các tác phẩm văn học nước ngoài nổi tiếng đều được dịch và phát hành nhanh chóng sau khi bản gốc ra đời không lâu, thậm chí còn phát hành song song như các series: "Harry Potter" (J. K. Rowling), "Percy Jackson" (tác giả Rick Riordan), series truyện về ma cà rồng: Chạng vạng, Trăng non, Nhật thực, Hừng đông (tác giả Mỹ Stephenie Meyer)... đã tạo cơ hội cho độc giả trong nước được tiếp cận nhanh với tác phẩm. Ngoài ra cũng không thể phủ nhận, chính các tác phẩm văn học dịch nước ngoài giúp các tác giả Việt Nam, đặc biệt là tác giả trẻ, có được một nguồn tham khảo vô tận về cách kết cấu tác phẩm, phát triển đề tài, từ đó họ có thể tìm một con đường đi riêng.

Trong năm năm trở lại đây, tỷ lệ phim nhập tăng nhanh hằng năm, nhiều phim mới sau khi phát hành ở các thị trường quan trọng như: Bắc Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã có mặt tại các rạp chiếu ở Việt Nam. Nhiều phim "bom tấn" còn được phát hành song song với các thị trường lớn. Cái lợi ở đây là khán giả không phải chờ đợi lâu, còn các đạo diễn, nhà biên kịch, quay phim... biết xu hướng điện ảnh hiện tại trên thế giới, cung cách làm phim, công nghệ...

Với âm nhạc, những chuyến lưu diễn của nghệ sỹ nước ngoài tại Việt Nam sẽ thỏa mãn cho những người hâm mộ họ. Bên cạnh đó giới tổ chức sự kiện âm nhạc cũng có thêm kinh nghiệm tổ chức, làm marketing...

Lợi bất cập hại
Chúng ta mở cửa và hội nhập nền văn hóa thế giới vào Việt Nam là điều dễ hiểu. Cái lợi từ văn hóa nhập khẩu là rõ nét nhưng cái hại thì không phải ai cũng nhận ra.

Việc nhập khẩu tràn lan phim truyện, phim truyền hình khiến sản phẩm nội khó có thể cạnh tranh là một thực tế. Điều này buộc giới điện ảnh trong nước phải cố gắng hơn, song trong lúc cố gắng thì rất nhiều đạo diễn, diễn viên, quay phim... không có cơ hội được làm việc và vì thế không thể tạo ra nền phim truyện Việt Nam hay các dòng phim truyền hình mang thương hiệu Việt Nam giống như phim tâm lý của Hàn Quốc, phim cổ trang dã sử Trung Quốc. Chiếu quá nhiều phim truyền hình hay ca nhạc Hàn Quốc đã thực sự tác động đến giới trẻ. Không ít thanh niên ăn mặc, đầu tóc giống như ca sỹ hay các minh tinh màn bạc xứ Hàn. Ngoài ra còn nhiều cái hại không thể đo đếm được…

Văn hóa là động lực cho sự phát triển và chúng ta vẫn luôn nói "xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", vậy việc nhập siêu văn hóa sẽ dẫn đến kết quả thế nào? Rất nhiều người cho rằng, muốn hạn chế nhập thì phải làm ra nhiều sản phẩm để người dân lựa chọn. Để làm được cần phải có chính sách hỗ trợ phù hợp để các đơn vị, cá nhân tác giả, dịch giả làm văn hóa có cơ hội phát triển. Còn nếu không thì văn hóa vẫn tiếp tục "bài ca" nhập siêu...

Nạn “cò” kịch bản phim truyền hình

Các yếu tố chính để phim truyền hình Việt ngày càng mất đi sức thu hút là nạn “cò” hoặc “đạo” kịch bản, đạo diễn chạy sô và đào tạo sơ sài... Công nghệ viết thuê kịch bản phim truyền hình đã và đang ăn nên làm ra.
Quy trình viết kịch bản thuê
Một bộ phim truyền hình trung bình dài 30 tập thì chi phí dành cho biên kịch khoảng 5-7 triệu đồng hoặc 10 triệu đồng/tập tùy vào tên tuổi người viết và độ hấp dẫn của kịch bản. Tuy thế, số tiền này không thật sự đến tay người sáng tác, đặc biệt là những biên kịch vô danh hay sinh viên. “Cò” là một biên kịch hay đạo diễn có tiếng đặt hàng nhóm tác giả trẻ viết thuê kịch bản với giá từ 500.000 đồng đến 1,5 triệu đồng/tập. Sau đó “cò” thuê tiếp người biên tập lại (với giá 1 triệu đồng/tập) hay chính “cò” làm việc này. Một năm nếu “cò” có mối quan hệ tốt với “nhà đài”, nhà sản xuất thì có thể bỏ túi dễ dàng vài trăm triệu đồng, thậm chí tiền tỉ mà không phải tốn công sức nhiều.
Hai tác giả trẻ Phạm Tân (tốt nghiệp khoa Diễn viên cải lương và Đạo diễn sân khấu trường ĐH SKĐA TP.HCM) và Huỳnh Tuấn Anh (tốt nghiệp khoa Văn ĐH Sư phạm và Đạo diễn sân khấu trường ĐH SKĐA TP.HCM) từng “làm thuê” cho “cò” kịch bản. Tân - Anh là đồng tác giả vở kịch Cuộc chơi nghiệt ngã và nhiều phim truyền hình như Cổng mặt trời, Ra giêng ai cưới em, Huyền thoại tình yêu... Cả hai xác nhận: “Phim Ra giêng ai cưới em do chúng tôi viết từ kịch bản đề cương Những cuộc kiếm tiền. Chúng tôi viết thuê 8 tập trong tổng số 30 tập. Phần tác giả kịch bản phim ghi rõ: Hoàng Anh. Phan Hoàng Anh là người đã thuê chúng tôi viết với giá 1,5 triệu đồng/tập phim”. Phạm Tân và Tuấn Anh cũng nhận được 1,5 triệu/tập phim Cổng mặt trời từ Hoàng Anh để viết 10 tập trong tổng số 100 tập của phim này .
Khó mà đòi hỏi phim truyền hình đạt chất lượng cao khi phát sóng bởi chất liệu đầu vào là kịch bản đã có nhiều vấn đề. Đào tạo nghề viết kịch bản trở thành nhu cầu thật sự của xã hội nhưng chỉ ĐH SKĐA Hà Nội là có ngành học này. Thành lập Hiệp hội Các nhà biên kịch để bảo vệ quyền lợi cho những tác giả cũng như giải quyết tranh chấp về tác quyền nảy sinh nếu có trong tương lai cũng là việc cần làm.
N.K.D, sinh viên năm 3 khoa Đạo diễn sân khấu trường ĐH SKĐA TP.HCM là nạn nhân của nạn “cò” kịch bản. D. là người đã viết kịch bản phim điện ảnh Thiên sứ 99 với thù lao... 2 triệu đồng! Tuy vậy, khi phim ra rạp, tên tác giả kịch bản hoàn toàn khác. “Tác giả Diệu Như Trang đã gặp tôi và đặt hàng viết kịch bản phim truyền hình Màu tình yêu dài 32 tập với giá chỉ 500.000 đồng/tập. Có những tập tôi còn bị trừ tiền do giao kịch bản trễ. Trước đó, chị Trang gặp tôi đề nghị viết vở Sám hối cho Sân khấu kịch Phú Nhuận, TP.HCM dàn dựng. Tôi viết 60% kịch bản vở này nhưng không nhận được một đồng thù lao nào vì chị Trang nói đó là quá trình “thử việc”. Vậy mà khi công diễn tác giả kịch bản vở này là Diệu Như Trang, tôi hoàn toàn không có tên gì cả”, N.K.D nói thêm.
Đạo diễn trẻ Q.T từng bức xúc khi bị “lừa” kịch bản. Năm 2010, Q.T đưa cho H.L, một biên kịch trẻ của đài truyền hình cáp đề cương kịch bản phim Ngày gió ngừng trôi và ứng cho cô này 10 triệu đồng để triển khai chi tiết kịch bản. Tuy nhiên H.L không viết mà đặt cho một sinh viên ở Hà Nội viết với giá “bèo”. Vụ việc vỡ lở khi sinh viên này tìm gặp Q.T kể rõ mọi việc vì H.L không cho đứng tên tác giả kịch bản.
Không có “cửa” gửi trực tiếp
Đa số tác giả trẻ đều cho biết rất khó để tiếp cận “nhà đài” hay nhà sản xuất phim để trình bày ý tưởng đề cương kịch bản hay thậm chí là kịch bản hoàn chỉnh. Nhà biên kịch Ngô Hoàng Giang, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật đã phát biểu tại buổi hội thảo Chất lượng phim truyền hình - Thực trạng và giải pháp do Hội Điện ảnh TP.HCM tổ chức hôm 7/6: “Chỉ một số ít tác giả trẻ có cơ hội gửi kịch bản trực tiếp đến nhà sản xuất, số đông còn lại phải qua trung gian. Trung gian là những người nắm được các nhà sản xuất có giờ phim trên sóng truyền hình, biết tìm đến tác giả và làm cầu nối. Tác giả nào may mắn thì chỉ qua một trung gian. Nếu không, phải chịu cảnh đi cầu đôi ba nhịp, chịu nhiều rơi rớt, pha loãng nội dung, bị ép giá... Chẳng hạn, kịch bản ban đầu 30 tập có tên A được đem bán. Người mua chế biến thành kịch bản B, C, D rồi chào hàng khắp nơi. Rốt cuộc, khi đến tay nhà sản xuất, chất liệu kịch bản ban đầu mang tên A bị biến thành nhiều kịch bản khác mang tên B, C, D”.
Một số tác giả trẻ miệt mài viết, được trả ít tiền nhưng không hề có tên bởi phải bán “lúa non” cho “chủ vựa”, cho “cò”. Thị trường phim truyền hình hiện nay từng có giai thoại “kịch bản trong kịch bản”. Theo hình thức này thì ai nghĩ ra cái gì viết cái nấy. Sau đó có người thu gom tất cả thành kịch bản và đứng tên tác giả. Nếu người thu gom có “nghề” thì sẽ cho ra một kịch bản đúng nghĩa, bằng không sẽ hình thành một mớ tạp nham. Đó là chưa nói đến nạn sao chép kịch bản, Việt hóa phim truyền hình bằng kịch bản nước ngoài có hoặc không mua bản quyền như Ngôi nhà hạnh phúc, Anh em nhà bác sĩ, Gió nghịch mùa, Sắc đẹp và danh vọng, Người đàn bà thứ hai... nhưng chất lượng lại thua xa bản gốc.

VÌ SAO PHIM TRUYỀN HÌNH VIỆT BỊ KHÁN GIẢ VIỆT "NGÓ LƠ"

Vừa qua, Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật TP.HCM kết hợp với Hội Điện ảnh TP. Hồ Chí Minh tổ chức cuộc Hội thảo: “Thực trạng phim truyện truyền hình Việt Nam: Chất lượng và Giải pháp”. Đó là cơ hội để những người trong cuộc cùng ngồi lại với nhau, cùng mổ xẻ những vết thương mà bấy lâu nay họ đã và đang cố gắng chịu đựng… Phải làm phim trong một môi trường bị ô nhiễm quá nặng vì đồng tiền ngự trị, lúc nào cũng chạy đua thời gian để cố hạ kinh phí càng nhiều càng tốt, bỏ qua hêt những tâm huyết và lương tâm nghề nghiệp, thì ai là những người trong nghề không cảm thấy đau lòng, bức xức.
Đó cũng chính là cái dốc trượt mà phim truyền hình Việt Nam đang lao xuống. Ai cũng hiểu và đều tìm ra đúng nguyên nhân, đúng cái gốc của vấn đề. Nhưng giải pháp thực thi hiệu quả nằm ngoài tầm tay của những nghệ sĩ mà ở chính cơ chế hợp tác của các đài truyền hình với các nhà sản xuất hiện nay. Chúng ta hãy nghe những nhà làm phim nói về chính công việc của mình hiện tại…
ĐƯỜNG BAY CỦA PHIM TRUYỆN TRUYỀN HÌNH
Đạo diễn Lê Văn Duy
Ngồi cạnh tôi trên chuyến bay về thành phố, tình cờ tôi quen một chàng trai Hà thành. Qua trao đổi tôi biết cô vợ sắp cưới của cậu ta mới tốt nghiệp Đại học Điện ảnh, giám đốc một hãng phim tư nhân. Tò mò hỏi tôi biết thêm cha cô gái phụ trách một bộ phận quan trọng trong đài truyền hình. Lờ mờ tôi hình dung ra một “đường bay của phim truyện truyền hình” đã hình thành. Người trong đài mở công ty con. Chuyện thật 100%. Ai không tin xin mở cuộc khảo sát nhỏ, sẽ rõ!
Sự việc tôi nghe trên máy bay không dừng ở trò móc ngoặc tinh vi đó khi “nhà nhà làm phim, người người làm phim”. Cái vòi bạch tuộc không dừng trong nội bộ đài mà lan rộng ra các công ty sản xuất phim đa quốc gia. Người trong nước đứng tên cho công ty nước ngoài núp bóng cùng thủ lợi. Hiện tượng đài truyền hình chiếu phim nước ngoài kém chất lượng, mua và phóng tác kịch bản nước ngoài hàng mấy trăm tập… Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng này trước tiên phải nói đến chính sách quản lý vĩ mô giữa cung và cầu.
Đất nước ta có 64 tỉnh thành. Mỗi tỉnh thành có đài truyền hình riêng. Nghĩa là ta có 64 nhà đài và hàng trăm hãng phim tư nhân. Nhưng Việt Nam chỉ có 2 trường Cao đẳng Truyền hình và 2 trường Đại học Điện ảnh (đào tạo trong 4 năm). Sự việc ta thiếu nhân sự chuyên môn có nghề là điều tất yếu. Nhiều cấp ủy địa phương lại chỉ thuần quan tâm đến chính trị, ít để ý đến chuyên môn trong việc bổ nhiệm bộ máy cán bộ quản lý chủ chốt các nhà đài. Đó là chưa nói đến việc tài chánh thiếu, phương tiện chuyên môn thiết bị kỹ thuật yếu kém. Như thế đầu vào không ổn, bộ máy chuyên môn kém làm sao sản phẩm nghệ thuật làm ra lại có thể có chất lượng cao?...
TẠI SAO PHIM TRUYỆN TRUYỀN HÌNH DỞ?
Đạo diễn Nguyễn Quang Dũng
Tôi có thể khẳng định, phim truyện truyền hình xuống cấp là do cơ cấu của đài truyền hình. Đài truyền hình đang tự giết mình mà không biết, hoặc biết mà làm lơ.
Cơ chế đài truyền hình hiện nay làm phim truyện truyền hình là như vầy:
Đài truyền hình cấp tiền và giao cho các hãng phim và nhà sản xuất làm. Với giá khoảng 180-200 triệu đồng/tập. Thực chất, khi kinh phí tới tay người làm phim thì qua bao nhiêu cửa, tiền sẽ rơi rụng bớt… Luật của đài truyền hình là kinh phí của phim sẽ được quy từ quảng cáo ra tiền một phim, kinh phí khoảng bằng mấy shot quảng cáo khi bộ phim được phát sóng. Các hãng phim, nhà sản xuất sẽ làm cam kết nếu phim phát sóng đủ lượng quảng cáo vào giờ đó thì đài sẽ trả đủ tiền như ký kết ban đầu, nếu không đủ thì phải đền cho đài, nếu quảng cáo nhiều hơn mức quy định thì đài truyền hình hưởng, nhà làm phim không được chia mà có thể được đài thưởng ở một mức tượng trưng.
Vấn đề nằm ở đây. Khi kinh phí được cào bằng và đặt ra một mức, thì nhà làm phim phải tính toán để không vượt kinh phí…
Trở lại việc cơ chế của đài truyền hình làm truyện phim truyền hình xuống cấp. Khi cơ chế khoán một mức cào bằng và không cao, và không có khoản thu nào sau khi có sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến các vấn đề mà chúng ta sẽ bàn sau đây:
1. Mục đích công việc
Người làm kinh doanh thì phải có lời, nên các nhà sản xuất muốn làm được phim mà không lỗ thì phải giảm chi phí, giảm bớt thời gian, phải làm phim thiệt nhiều tập để bù qua xén lại. Khi mục đích này được đưa ra thì phim phải quay nhanh hơn, phải đơn giản những thứ phức tạp, lương trả cho mọi người cũng ít hơn thì ít người tốt làm việc... Nên tình hình xuống cấp là như vậy… Chưa kể các hãng phim hiện nay mọc lên như nấm. Những người không rành thì cứ nghĩ phim đang phát triển, dễ kiếm ăn nên nhào vô kinh doanh. Muốn chen chân, cách duy nhất khi họ là lính mới là họ phải chịu nhận tiền ít hơn, hay nhận lại bởi các công ty nhận sỉ giờ của đài truyền hình mà làm không xuể nên giao lại, mà giao lại thì họ phải cắt bớt chi phí cho họ, cứ thế để cạnh tranh, hoặc cắt bớt tiền đi cửa sau để được giao làm phim… Chưa kể khi đài truyền hình giao cho các hãng phim làm thì trả tiền sau khi duyệt phim, tức là các nhà sản xuất phải vay ngân hàng để làm phim. Mà với giá hiện nay, lãi suất vay ngân hàng nhiều khi còn cao hơn tiền lời của họ….
2. Điều kiện làm việc
Từ mục đích phải tiết kiệm thời gian và chi phí như trên dẫn đến điều kiện làm việc càng lúc càng chụp giật và đơn giản hóa.
3. Khả năng
Từ mục đích và điều kiện như vậy thì người giỏi cũng thành dở… Nhiệm kỳ của nhà quản lý truyền hình chỉ có vài năm, nên tương lai có chết thì cũng kệ, miễn sao nhiệm kỳ của họ thu lợi cho họ. Cho nên tôi nghĩ, thiệt ra họ không có ngu khi đưa ra một cơ chế bất hợp lý. Vì họ đi nước ngoài nhiều, cũng biết nhiều cơ chế hợp lý. Nhưng nếu khi cơ chế hợp lý và công bằng dành cho người làm tốt thì họ chẳng lợi ích gì cho cá nhân.
Vậy cơ chế như thế nào mới phát triển, thiệt ra là không khó.
Thật ra đài truyền hình không cần cấp kinh phí cho các công ty, các nhà làm phim. Họ chỉ cần chia lợi nhuận quảng cáo một mức hợp lý thì các nhà làm phim phải ráng đầu tư làm phim tốt thì mới có khán giả, mới có quảng cáo. Khi đó họ phải tìm đủ mọi cách làm phim thu hút khán giả. Để làm được như vậy thì nó sẽ vô đúng cơ cấu kinh doanh hơn là đầu tư tốt, thu hút nguồn nhân lực có khả năng để có sản phẩm tốt và chỉ có sản phẩm tốt lợi nhuận mới tăng.
Tức là cơ chế này với mục đích để có lợi nhuận thì sản phẩm phải tốt.
Còn với cơ chế hiện nay thì để có lợi nhuận là phải tiết kiệm chi phí, phải cạnh tranh giảm giá, phải có quan hệ nhận dự án và lọt qua sóng.
Tôi nghĩ đây là cái gốc của vấn đề và cần được bàn trước khi kêu la về đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm.
PHIM TRUYỀN HÌNH - SAO LÀM MÃI VẪN CHƯA HAY?
Đạo diễn Nguyễn Minh Cao
Nhà sản xuất và quyền quyết định
… Thay vì biên kịch là người tiếp xúc nhiều với đạo diễn nhất thì hiện nay dường như họ chỉ có điều kiện tiếp xúc với nhà sản xuất. Người đầu tư muốn gì? Những món gì trong phim có thể chào quảng cáo, nghề nào nhà sản xuất xin được tài trợ… Có trường hợp để chạy theo tài trợ, nhân vật chính của phim phải “đổi nghề”… Biên kịch – người sáng tạo nên nền tảng của một bộ phim – không có nhiều đất sáng tạo. Họ phải viết theo “đơn đặt hàng” của nhà sản xuất như: trong phim đó bao nhiêu cảnh nội cảnh, ngoại ngày, đêm?... đều phải quy định từ khi viết – để nhà sản xuất giảm giá thành và tiết kiệm tiền đầu tư.
Áp lực doanh thu của nhà sản xuất đôi khi đổ lên đầu biên kịch và kịch bản vì thế cứ nhàn nhạt theo – biên kịch dần dà chán với chính “đứa con” của mình. Bởi làm phim truyền hình nhiều tập cần nhiều thời gian, đôi khi là nửa năm, một năm cho một kịch bản – để có lửa trường kỳ châm cho sáng tạo là không đơn giản. Trong khi bị áp lực quá nhiều từ nhà sản xuất, thời gian hoàn thành kịch bản – biên kịch cảm thấy quá mệt mỏi, đến khi giao kịch bản cho đạo diễn được rồi thì họ đành “lặn” mất tăm, để tự các đạo diễn phải tùy cơ ứng biến.
Đạo diễn và dàn diễn viên
Thời gian ít, kinh phí thực hiện hạn hẹp thì dù đạo diễn và diễn viên có nỗ lực cách mấy phim cũng rất khó hoàn hảo. Thực tế tôi đã từng phải quay 30 tập phim trong vòng 60 ngày, 2 ngày 1 tập với một hãng phim chưa chuyên nghiệp. Bao nhiêu đó thời gian, diễn viên không có thời gian để thấm kịch bản, huống hồ là chăm chút cho từng câu thoại, nét mặt và tư duy riêng cho từng vai diễn của mình. Chưa nói đến việc diễn viên đa số là không chuyên và từ ngành khác như: ca sĩ, người mẫu chuyển qua… Về phía đạo diễn, tuy đã tiếp xúc kịch bản từ trước nhưng 30 tập phim cũng là một số lượng chữ khổng lồ, hơn 1.300 trang in. Các diễn viên chính cũng phải đọc nhiêu đó số trang với thời gian quá hạn hẹp… và điều kiện làm việc đôi khi rất khắc nghiệt (cảnh ngoại ở Phương Nam với cái nắng gay gắt và đôi khi xe cộ rất ồn ào…).
Tuy nhiên, không thể phủ định được, trong tình hình khó khăn, vẫn có nhiều bộ phim truyền hình Việt Nam nhiều tập làm hài lòng khán giả Việt. Ánh nhìn của khán giả đã bớt “khắt khe” hơn trước. Khi xem những phim Việt hóa thì họ lại ao ước được xem phim thuần Việt hơn. Khán giả truyền hình đã khóc bởi những phim thuần Việt như Ngã rẽ (phần 3 của Câu chuyện pháp đình), cười cùng phim thuần Việt như Cá rô em yêu anh, hồi hộp cùng Vật chứng mong manh… Khán giả ngày càng tin tưởng vào phim Việt hơn. Tín hiệu đáng mừng cho nhà sản xuất và những người làm phim Việt.
CÒN KHÔNG TRÁCH NHIỆM NGƯỜI NGHỆ SĨ TRONG SÁNG TÁC?
Biên kịch Nhất Mai
Trong guồng máy sản xuất phim truyền hình nhanh đến chóng mặt hiện nay, mọi giá trị dường như được sắp xếp lại. Nhanh - Ẩu - Rẻ có phải là tiêu chí được đề ra và vô hình trung trở thành tiêu chí được chọn lựa của một số người? Có sản phẩm nào (kể cả vật chất và tinh thần) nhanh, rẻ mà không ẩu không? Khó lắm. Tiền nào của nấy! Sáng tác mà làm như gà đẻ thì chuyện một bộ phim có được sự đồng thuận, hoan hỉ của khán giả hay không thì đúng là khó lắm. Và người đạo diễn đứng ở đâu của ranh giới này, nhà sản xuất họ có lý do của họ, còn mình, đạo diễn, linh hồn của bộ phim, anh chọn vị thế nào để củng cố thương hiệu mình? Trong khi, quyền tối cao nhất, liên quan đến chất lượng nghệ thuật của một bộ phim, quyền chọn diễn viên để phân vai, anh cũng không còn cái quyền đó. Quá nhiều áp lực? Và áp lực mạnh mẽ nhất chính là số tiền thù lao mình sẽ được nhận.
… Nhân vật thứ hai mà tôi muốn nói đến là tác giả kịch bản. Có thể nói đây là thành phần bị áp bức nhiều nhất. Nếu như mỗi bộ phim, người ta thường giới thiệu tên biên kịch đầu tiên, thật ra đó chỉ là hư danh, có khi bộ phim chẳng còn một chút dáng dấp nào đứa con tinh thần của họ. Nhà sản xuất sẵn sàng đề nghị biên kịch sửa tới sửa lui kịch bản năm lần bảy lượt, nhưng khi kịch bản trở thành phim, chỉ cho ra đời một đứa con chỉ còn lại cái tên, lạ hoắc. Vậy, công sức đổ ra điều chỉnh kịch bản để làm gì, khi qua tay đạo diễn gần như 100% kịch bản đều thay hình đổi dạng.
… Sở dĩ tôi phải nói dài dòng về những điều này, vì thật ra, nếu tính đến tinh thần trách nhiệm của người nghệ sĩ trong sáng tác, đối với người biên kịch thì có khi là một ngoại lệ, bởi vì họ rất thụ động. Họ có quyền viết, nhưng không có quyền giám sát, quyền bảo vệ kịch bản, họ chỉ có một quyền duy nhất, quyền nhận thù lao kịch bản, quyền có tên trong bộ phim, vậy thôi. Còn nếu cảm thấy rắc rối quá thì thôi vậy, khỏi viết!
Nhưng có khi, cái tên biên kịch cũng bị quên luôn, không được nhắc đến. Trong lễ phát giải Cánh Diều từ năm 2008 đến nay, duy nhất chỉ có tên biên kịch phim truyện nhựa xuất sắc được xướng tên, còn tất cả các giải từ lớn tới nhỏ khác, chỉ giới thiệu đạo diễn, còn biên kịch ở đâu không biết (có thể kiểm tra trong văn kiện của Đại hội Điện ảnh năm 2010). Đó, một hội mang danh là hội nghề nghiệp lớn, thuộc Trung ương mà còn không coi trọng tác giả kịch bản, huống gì ở nơi khác?
DIỄN VIÊN DỄ HAY KHÓ?
Đạo diễn - Diễn viên Hạnh Thúy
Theo cách nhìn của không ít người hiện nay thì làm diễn viên khá là dễ, chính vì vậy mà không ít người tay ngang đã đổ xô đi làm phim và đóng phim. Điển hình là mở bất cứ bộ phim nào ta cũng có thể thấy những diễn viên ngoại đạo, có thể họ là những người mẫu, ca sĩ, hot girl, hot boy, doanh nhân... hay thậm chí một cô tiếp viên hàng không hay một nhân viên văn phòng nào đó có mặt xinh dáng đẹp.
Tất nhiên không thể phủ nhận những “kẻ ngoại đạo” đó đã mang một khuôn mặt mới cho phim Việt khi làm phong phú thêm lực lượng diễn viên vốn dĩ thiếu mà thừa, thừa mà thiếu của điện ảnh Việt. Cũng như phải cám ơn họ vì sự sang ngang với điện ảnh cũng như sự dũng cảm của chính họ và đạo diễn khi dám giao và nhận những vai diễn đầu tiên chạm ngõ để sau đó phim Việt có thêm những khuôn mặt mới và rất nhiều trong số họ còn thành công hơn cả những diễn viên chuyên nghiệp bởi cộng với ngoại hình bắt mắt họ có sự nghiêm túc khi làm nghề, ý thức trong công việc và cả khả năng diễn xuất... như Hồng Ánh, Ngô Thanh Vân, Phi Thanh Vân...
Tuy nhiên số thành công và được sự thừa nhận như các anh chị đó không nhiều mà đa phần là khán giả sẽ được xem những diễn viên với cách diễn ngô nghê, đi đứng cứng ngắc, với những khuôn mặt không thể hiện được bất cứ cảm xúc nào của nhân vật cần phải có, nếu là thu thoại trực tiếp thì còn đau lòng hơn khi giọng thoại cứ đều như đọc mà lắm khi là đọc không chạy... Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng thấy chỉ cần tròn vai thôi đã là khó, còn để mong diễn viên đào sâu tâm lý, mềm mại trong diễn xuất... thì đúng là không tưởng...
Với bản thân mình, tôi cho rằng tầm sáng tạo của mình chỉ ở mức tạm chấp nhận được nhưng cũng khiến tôi vài lần khốn khổ vì những bạn diễn không làm thế nào thuộc thoại, nhưng nếu muốn thoại lời với họ thì họ còn bận làm đẹp, chuốt lại mái tóc, tô son, dặm bóng... Và khi ra hiện trường thì mới bắt đầu làm công việc mà lẽ ra diễn viên phải làm từ trước là học lời. Rồi khi quay thì vì do chưa thuộc lời nên cứ nhăm nhăm nói lời mà quên mất cả diễn, khiến bạn đồng diễn có muốn sáng tạo cũng bó tay vì cứ nhìn bạn diễn ấp a ấp úng ráng nói cho xong lời thì còn đâu hứng thú mà sống với nhân vật nữa?
Nếu so về cách làm việc, tôi cho rằng nếu cứ như hiện nay thì chúng ta còn lâu lắm mới có những phim hay, diễn viên giỏi để vươn ra tầm thế giới…
HÃY CHỈ CHO TRÚNG NGUYÊN NHÂN KHIẾN PHIM TRUYỆN TRUYỀN HÌNH SÚT KÉM CHẤT LƯỢNG
Đạo diễn - Biên kịch Tô Hoàng
… Vậy nguyên nhân chính, kẻ “ tội đồ” chủ yếu khiến cho phim truyện truyền hình ngày càng sa sút, càng xuống cấp nghiêm trọng về chất lượng là ai, đang ẩn náu ở đâu?
Đến đây, với tất cả sự mạnh dạn và thẳng thắn, chúng tôi xin nói thẳng thừng: Chính là Nhà nước đã đun đẩy phim truyện truyền hình vào tình trạng đáng rung chuông báo động như ngày hôm nay.
Có một câu hỏi đơn giản như thế này, liệu có ai nghĩ tới không: “Đầu ra” cho phim truyện truyền hình hiện nay nằm ở đâu? Có thể trả lời được ngay: ‘Đầu ra” chính là hơn 80 kênh, đài truyền hình của trung ương và các tỉnh thành đang phủ sóng ngày đêm khắp cả nước! Tôi không có dịp ra nước ngoài để tìm hiểu xem, trong khu vực và trên thế giới có quốc gia nào nhiều kênh phát sóng như ở Việt Nam không? Truyền hình analog và truyền hình cáp. Bây giờ còn có cả truyền hình của Đài Tiếng nói Việt Nam, của VNTTX. Nghe nói sắp tới quân đội, công an còn có kênh riêng của mình. Kênh, đài đã nhiều mà kênh, đài nào cũng đua nhau phát sóng 24/24 giờ trong một ngày. 5, 7 năm trước đây, một đài truyền hình cấp tỉnh như Bến tre, Trà Vinh gắng gỏi lắm cũng chỉ dám bảo đảm phát sóng từ 3 tới 6 giờ trong một ngày…
Vậy khi Nhà nước chủ trương cho thoải mái, tự do mở kênh, lập đài vô tội vạ như hiện nay, và nhất là lại để phó mặc các đài “tự nuôi thân” thì đây là nguyên nhân số 1, nguyên nhân chủ yếu đẻ ra tình trạng sản xuất phim truyện truyền hình ào ạt, lấy số thay lượng, coi việc thu hồi được nhiều quảng cáo đáng nể trọng, đáng coi là thước đo hơn hẳn phẩm chất nghệ thuật của bộ phim như dư luận đang tỏ ra bất bình.
Nếu nhất trí nguyên nhân số 1, nguyên nhân chính yếu là như vậy thì theo ý chúng tôi, sẽ có 3 phương sách hữu hiệu để tháo gỡ như sau:
1. Giảm thiếu tối đa các đài, các kênh truyền hình đang phát sóng. Nghe điều này có vẻ khiên cưỡng và phi lý, nhưng vào đầu những năm 1990 có những người quản lý và lãnh đạo ngành truyền hình Việt Nam đã đề xuất phương án dẹp bỏ hết đài cấp tỉnh, chỉ còn để tồn tại Đài Truyền hình VN, Đài Truyền hình TP.HCM và một vài đài khu vực nằm ở Huế hay Đà Nẵng, Cần Thơ. Giảm thiểu số lượng đài, kênh tức giảm thiểu tối đa “đầu ra” của phim truyện truyền hình. Đài, kênh ít đi sẽ có điều kiện để kiểm soát và lựa lọc phim. Phim ít đi, sẽ có điều kiện để những ai đủ phẩm chất sáng tạo, biết làm nghề mới bắt tay làm phim. Sự xô bồ, làm nhanh, làm ẩu sẽ bị dập tắt liền.
2. Nếu không giảm thiểu tối đa đài, kênh đi và cũng không thể cản được dòng thác tuôn trào của việc sản xuất phim truyện truyền hình thì Nhà nước chịu mở hầu bao đầu tư một cách thích đáng để nuôi lấy một dòng phim có ý tưởng, có chủ đề, có thẩm mỹ vừa làm đối trọng vừa làm đối thủ cạnh tranh với phim truyện truyền hình hiện nay. Làm như thế cũng tức là dòng phim nghệ thuật, thẩm mỹ do Nhà nước nuôi dưỡng sẽ bước vào cuộc giành giật lại người xem; giành giật cả nhu cầu thưởng thức có lựa lọc từ dòng phim giải trí hiện nay. Đồng thời cũng là biện pháp tích cực bảo vệ, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của nền điện ảnh đã ra đời trong cách mạng và chiến tranh và giữ định hướng cho hoạt động phim ảnh nói riêng, văn hóa nói chung.
Và bằng cung cách ấy hoặc sẽ góp phần vực dắt dòng phim giải trí về với sự nghiêm túc, kỹ càng hoặc bóp mũi cho nó nghẹt thở chết ngay.
3. Kiến giải cuối là cứ để mặc tình trạng sa sút, kém cỏi của phim truyện truyền hình hiện nay tồn tại. Tự nó sinh ra khách, tự nó sẽ xua đuổi khách đi. Tự nó tạo ra vốn quay vòng và cũng tự nó dần dần cạn vốn như con lạc đà ở giữa sa mạc. Tự nó mở đường và tự nó đâm đầu vào ngõ cụt. Đương nhiên là trong một khoảng thời gian dài dài…
LỐI ĐI NÀO CHO PHIM TRUYỆN TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY?
PGS-TS Trần Luân Kim
… Giải pháp nào có thể ngăn chặn hiệu quả đà tụt dốc, đồng thời phát huy ưu thế chế tác phim truyện truyền hình ở nước ta trong giai đoạn hiện nay?
Trước hết, phải quan tâm đến yếu tố quan trọng bậc nhất là đội ngũ hành nghề. Do đặc điểm nào đó, ở nước ta, tỉnh nào cũng thành lập một đài truyền hình riêng, cát cứ một khoảnh riêng. Đó là duyên cớ rõ ràng dẫn tới tình trạng phân tán lực lượng trên phạm vi toàn quốc. Cần trước hết từng đài có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và nhận thức chính trị - xã hội - văn hóa cho các thành phần sáng tác.
Song song việc tích cực tổ chức tiếp thu kỹ năng chế tác, phương pháp làm phim tiên tiến với kỹ thuật công nghiệp hiện đại của các nước đối với đội ngũ sáng tác, cần tập trung cải cách phương pháp điều hành chuyên ngành đối với các nhà quản lý hoạt động chế tác phim truyện… Đề tài và thể loại là hai yếu tố nền tảng hình thành tác phẩm, cần được chú trọng hàng đầu…
Lâu nay, hiện tượng tùy hứng, tùy tiện trong lựa chọn đề tài và thể loại thể hiện, đã khiến nhiều tác phẩm chưa đi vào cuộc sống đã bị cuộc sống gạt bỏ. Với phim truyện truyền hình (nhiều tập), đông đảo người xem hiện nay luôn có cảm tình với những câu chuyện về lối sống cộng đồng, nền nếp sinh hoạt gia đình thuần việt được diễn đạt chân thực, gần gũi, có sức gợi cảm.
Song song với những việc cần làm nói trên, lề lối hợp tác giữa đài truyền hình với các nhà sản xuất phim, trong đó có các nhà sản xuất phim tư nhân cần được thiết lập trên cơ sở đối tác bình đẳng, cùng có lợi và cùng chung trách nhiệm. Cả hai bên cần tuân thủ nghiêm ngặt cơ chế phối hợp bảo đảm chất lượng nội dung cũng như chất lượng nghệ thuật của tác phẩm. Điều đó có nghĩa là cả hai bên cần thống nhất kế hoạch sáng tác sản xuất và phát sóng một cách chủ động và hài hòa. Cần sản xuất sớm và chỉ bắt đầu phát sóng khi toàn bộ tác phẩm đã được hoàn thiện và đã qua kiểm tra chất lượng nghiêm túc. Cũng có thể tránh tình trạng đánh đồng kinh phí cho tất cả các phim bằng cách phân hạng phim theo tiêu chí phù hợp để làm căn cứ hạch toán cụ thể cho từng phim.
Lại còn cần có sự điều phối tổng thể từ cấp trung ương đối với hệ thống đài truyền hình cả nước về kế hoạch luân phiên phát sóng các tác phẩm chủ lực nhằm đảm bảo tận dụng bản phim, đồng thời tạo điều kiện cho mọi đài có điều kiện sử dụng hợp pháp các tiết mục tốt, tránh tình trạng cố hữu là thiếu tiết mục và xâm phạm bản quyền của nhau.
Vượt qua khó khăn trước mắt bằng nhiều giải pháp tổng hợp như vậy mới mong phim truyện truyền hình nước ta sẽ được gia tăng trong tương lai không xa về số lượng cũng như chất lượng thể hiện nghệ thuật.





Khi “nhà đài” định hướng đề tài…

Lâu nay, các “nhà đài” vẫn cứ ngồi… chờ nhà sản xuất đem kịch bản (hay đề cương) đến duyệt hoặc mang phim đến bán bản quyền chứ chưa thấy đài nào quy hoạch rõ ràng cần có những phim về đề tài nào hay tập trung vào mảng phim nào để các nhà sản xuất biết mà lo liệu.
Mới đây, người có chức trách của Đài Truyền hình TP.HCM (HTV) cho hay, đài này đang hướng các nhà sản xuất làm phim về nông thôn, nông dân, đặc biệt là nghề và làng nghề, và có thể thấy điều này trong năm 2011. Đây có thể coi là tín hiệu vui của phim truyền hình (PTH) khi các nhà sản xuất được “nhà đài” định hướng đề tài?
“Nhà đài” và nhà sản xuất đều… lúng túng
Kể từ khi “phim Việt giờ vàng” bắt đầu “chạy” trên Đài Truyền hình TP.HCM (HTV) vào tháng 5/2005, PTH Việt ngày càng tăng nhanh về số lượng. Vài năm đầu, có thể thấy sự bung ra ồ ạt của các phim giải trí, loanh quanh với các cuộc tình tay ba, các mối quan hệ trong gia đình, nhất là những gia đình tái ngộ sau ly tán, xuất phát từ các kịch bản “Việt hóa”: Vòng xoáy tình yêu, Niềm đau chôn giấu, Mộng phù du…
Sau đó, cùng với việc HTV mở rộng khung “giờ vàng” trên các kênh khác và sự tham gia hồ hởi của nhiều nhà sản xuất, PTH trên sóng ngày càng đa dạng thể loại, đề tài… Nhưng phần lớn dự án vẫn tập trung vào các phim giải trí. Hãng có tên tuổi nhiều năm cho đến hãng mới chập chững đều thi nhau khai thác đến nát nước đề tài này, cũng bởi phim giải trí cũng dễ đặt quảng cáo vào nội dung phim (rất tiếc đa số các hình ảnh quảng cáo này đều gây khó chịu cho người xem vì thường rất “thô” và ẩu).
Dòng phim về đề tài xã hội với những Ma làng, Luật đời, Chạy án… hay gần đây là Bí thư Tỉnh ủy, Đầm lầy bạc… có thể coi là thế mạnh của Trung tâm Sản xuất PTH - Đài Truyển hình VN (VFC). Loạt phim hình sự chất lượng trồi sụt cùng với số lượng phim phát sóng lẻ tẻ khiến nó chưa thật sự trở thành “món” được khán giả chờ đón hằng đêm, dù đã có hàng trăm tập phim lên sóng suốt cả chục năm qua. Tuy nhiên, VFC cũng không “bỏ qua” mảng phim giải trí. Sau khi không mấy thành công với dự án phim hài “Việt hóa” kịch bản nước ngoài Những người độc thân vui vẻ, VFC sắp cho lên sóng bộ phim tâm lý xã hội Cầu vồng tình yêu (78 tập), trên cơ sở kịch bản của Hàn Quốc, và bộ phim về hậu trường giới biểu diễn Tiếng hót chim họa mi (30 tập)…
Khi Đài Truyển hình VN mở rộng thêm khung giờ vàng trên kênh VTV1, với ý tưởng của lãnh đạo đài lúc đó, kênh VTV3 dành cho các phim giải trí và VTV1 “chuyên trị” các phim đề tài xã hội để tạo nên “thương hiệu” riêng về phim Việt cho mỗi kênh và khán giả cũng dễ dàng lựa chọn. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn kể từ khi mở thêm “giờ vàng” vào 21 giờ trên VTV1, có thể do các phim đề tài xã hội không đủ cung hay do các phim dài tập quá dài (trên 100 tập) nên trên VTV1 lại phát các phim giải trí đan xen phim đề tài xã hội. Dẫu không đài nào thừa nhận việc bị động về phim phát sóng nhưng việc có những phim bị… đổ rồi phải nhanh chóng đưa phim khác “thế chân” phần nào phản ánh tình trạng này.
Hậu quả của sự thiếu định hướng
NSND-đạo diễn Khải Hưng có lần đưa ra gợi ý các đài truyền hình cần định hướng về đề tài và quy mô sản xuất để các nhà làm phim xã hội hóa có thể chủ động đầu tư, từ kịch bản đến tìm kiếm đội ngũ làm phim và kinh phí phù hợp. Gần đây, HTV mới hướng các nhà sản xuất làm các bộ phim về nông thôn, nông dân, đặc biệt là nghề và làng nghề. Có nghĩa là trước đó, các nhà sản xuất vẫn tự… dò dẫm? Và tình trạng này đang phổ biến ở các đài, dù phim vẫn lên sóng đều đều.
Vì không đưa ra định hướng hay tiêu chí cụ thể nên không ít nhà sản xuất… liều. Có người chân ướt chân ráo bước vào làm phim lại chọn ngay bộ kịch bản dã sử với bối cảnh cung vua, phủ chúa. Có hãng thấy phim lịch sử đang được các đài ưu ái liền bỏ tiền thuê biên kịch viết cả mấy chục tập về anh hùng ở địa phương rồi rầm rộ khởi quay. Có công ty thấy phim hài đang thiếu vắng liền “xông vào” làm hài… Phần nào hậu quả của việc “không biết mình biết ta” này có thể thấy ở hai dự án phim Anh chàng vượt thời gianXin thề anh nói thật. E rằng danh sách này sẽ còn nối dài, bởi hầu hết các dự án phim tư nhân hiện nay đưa vào sản xuất đều dựa theo sự… dò dẫm của nhà sản xuất.
Nhiều nước phát triển đã hình thành những ê kíp sản xuất gắn với từng thể loại phim. Khi chuyên sâu sản xuất những phim cùng đề tài hay cùng bối cảnh quen thuộc, các ê kíp có thể tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu và hứa hẹn việc nâng cao chất lượng phim. Dĩ nhiên, một hãng có thể sản xuất nhiều loại phim nhưng họ thường xác định được thế mạnh trên thị trường khi cạnh tranh với các hãng khác.
Việc triển khai các dự án phim lớn thường có sự điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường và thị hiếu người xem chứ không phải ngó nghiêng xem có quan hệ ở đài nào để tìm cửa sóng ở đài đó như nhiều nhà sản xuất ở nước mình. Vậy nên mới có không ít phim sản xuất từ lâu, chạy hết cửa này đến cửa khác, sau 3-4 đài, cuối cùng phim vẫn được lên sóng. Hay có nhà sản xuất trụ sở phía Bắc lần đầu làm phim lại có phim phát ở phía Nam, còn các nhà sản xuất phía Nam thi nhau chạy ra Bắc cũng chẳng còn xa lạ. Chỉ lạ nỗi, chưa phim nào “ế” vì không tìm được cửa sóng. Mà có khi bán bản quyền ở đài phía Nam, lần lữa mãi vẫn không xong, ra đến đài ngoài Bắc lại được “gật”, thế là quảng cáo đổ vào ào ào…
Việc không công khai những tiêu chí chọn kịch bản, nhà sản xuất hay định hướng đề tài cũng là một kiểu làm ăn tù mù, khiến tiêu cực dễ phát sinh. Vậy nên PTH ở nước ta còn trong tình trạng phập phù và những chuyện liên quan đến sản xuất và phát sóng PTH còn dài, “biết rồi khổ lắm”…


Xã hội hóa điện ảnh và truyền hình: Hãng phim tư nhân “lên ngôi”?

Nhìn vào các sản phẩm của những hãng phim tư nhân và các công ty cổ phần truyền thông (CTCPTT) đầu tư sản xuất, ta thấy rõ tính chuyên nghiệp, tính quốc tế và sự tự tin của các nhà đầu tư. Những phẩm chất đó phối kết với nhau trong từng sản phẩm, từ cách chọn đề tài, cách tổ chức sản xuất và cách quảng bá, tiếp thị đã tạo cho điện ảnh và truyền hình xã hội hóa một diện mạo mới, một đẳng cấp mới đầy hấp dẫn và thuyết phục.
Những năm gần đây, các hãng phim tư nhân, các CTCPTT với bản lĩnh tự tin chuyên nghiệp và sự năng động của mình đã tạo nên những bứt phá ngoạn mục thể hiện qua những sản phẩm đi vào đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Sự xuất hiện của các phim nghệ thuật và giải trí có chất lượng cao do tư nhân sản xuất như Áo lụa Hà Đông, Dòng máu anh hùng, Nụ hôn thần chết và loạt phim phóng sự truyền hình có tính đột phá do các CTCPTT phối hợp với Đài TFS sản xuất như Mê Kông ký sự, Huyền bí sông Hằng... đã cho thấy quá trình xã hội hóa điện ảnh và truyền hình ngày càng có hiệu quả văn hóa và xã hội.
Khẳng định tính chuyên nghiệp
Nhìn vào cách tổ chức sản xuất và quảng bá sản phẩm của các hãng phim tư nhân như Thiên Ngân, Phước Sang, BHD, Chánh Phương, và các CTCPTT như TV Plus, Cát Tiên Sa... ta có thể thấy họ điều hành mọi việc rất bài bản theo các cách thức và chuẩn mực của các doanh nghiệp giải trí truyền thông trong các nước phát triển. Họ đã biết sử dụng những chuyên gia được đào tạo bài bản ở nước ngoài và áp dụng các tri thức chuyên ngành của công nghệ giải trí, truyền thông vào thực tế hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Họ biết dùng các phương tiện hiện đại và các chiêu thức tiếp thị chuyên nghiệp để quảng bá cho sản phẩm ngay từ khi mới hình thành ý tưởng.
Trong khi các hãng phim nhà nước hầu như không bao giờ lập trang web cho một bộ phim, tổ chức họp báo ra mắt đoàn làm phim một cách trang trọng ngay từ lúc khởi quay hay bỏ kinh phí lớn quảng cáo cho sản phẩm trên báo chí, băng rôn, tổ chức các hoạt động khuyến mại nhân dịp phim ra rạp... thì các hãng tư nhân đã làm việc đó một cách tự giác, năng động và thành thạo. Một đạo diễn của Hãng phim Truyện Việt Nam khi đóng góp ý kiến cho Luật điện ảnh đã đề nghị bổ sung trách nhiệm quảng bá sản phẩm cho các hãng phim nhà nước, một đạo diễn khác mơ phim của mình có được sự quảng bá như các phim tư nhân. Vì trên thực tế, nhiều phim do các hãng phim nhà nước sản xuất bị rơi vào tình trạng “áo gấm đi đêm”, không hề được quảng bá, ngay cả khi mang chuông đi đấm nước người, mang giới thiệu ở chợ phim quốc tế cũng không có đủ các phương tiện thông tin tối thiểu như áp phích, tờ rơi, đĩa CD giới thiệu. Trong khi các nhà báo phải khó khăn vất vả mới có được thông tin và hình ảnh của các phim nhà nước để giới thiệu, thì các hãng phim tư nhân đã chủ động cung cấp đầy đủ cho báo giới.
Tính chuyên nghiệp, tính hàn lâm là một nét mới phân biệt các hãng phim tư nhân ngày nay với các hoạt động sản xuất phim tư nhân của thập kỷ 90 thế kỷ trước...
 Những bài toán ở tầm quốc tế
Các hãng phim nhà nước chỉ trông chờ vào tiền tài trợ hay đặt hàng từ Nhà nước, thậm chí chỉ lo  khấu hao vật tư và khai thác việc bán chất xám của nghệ sĩ lấy tiền trả lương mà hầu như không có bài toán kinh doanh quốc tế như các hãng tư nhân. Hãng phim Truyện Việt Nam trong nhiều năm không tổ chức được đủ công ăn việc làm cho các nghệ sĩ, đến nỗi phải cho các nghệ sĩ tài năng nghỉ hưu sớm lĩnh "một cục" và phải trả lương 70% cho toàn thể CB-CNV cơ quan, đến nay bắt đầu ra quy chế cắt lương các nghệ sĩ đi làm bên ngoài và gửi công văn cho các hãng phim tư nhân thông báo sẽ đòi tiền "xuất khẩu" các nghệ sĩ, theo đó các hãng khác thuê một nghệ sĩ của Hãng phim Truyện Việt Nam ngoài tiền trả cho nghệ sĩ phải trả cho hãng 4 triệu đồng/tháng.
Mục tiêu của các hãng tư nhân là họ hướng tới những bài toán lớn ở đẳng cấp quốc tế. Họ dám bỏ hàng triệu đô-la để sản xuất các bộ phim có giá trị nghệ thuật để tham dự các LHP quốc tế, tạo thương hiệu cho xuất khẩu thu hồi vốn như Áo lụa Hà Đông, Dòng máu anh hùng... Họ có những chương trình hợp tác và kinh doanh quốc tế như Hãng Phước Sang hợp tác với Hàn Quốc sản xuất phim Mười, Hãng Thiên Ngân hợp tác với công ty Mỹ làm cụm rạp Mega Star, Hãng BHD đã kết nối được với một mạng lưới các nhà phát hành phim quốc tế để giúp các hãng nhà nước xuất khẩu nhiều phim hay đang tồn đọng trong kho. Các CTCPTT như TV Plus cũng phối hợp với Đài TFS sản xuất các chương trình ký sự tầm cỡ quốc tế như Mê Kông ký sự, Ký sự hỏa xa, Amazone, Tân Đảo, Huyền bí sông Hằng... và đang triển khai hàng trăm tập ký sự Con đường vĩ đại về hành trình cứu nước của Bác Hồ và Con đường tơ lụa về lịch sử giao thương và văn hóa vùng Tây Á. Bên cạnh một số games show kém chất lượng làm các công ty tư nhân mất điểm, thì những chương trình này không chỉ làm phong phú thêm thực đơn hấp dẫn cho màn ảnh nhỏ, kết hợp được tính giải trí và tính giáo dục, mà còn nâng các chương trình truyền hình Việt Nam lên đẳng cấp quốc tế.  Điều thú vị nữa là các CTCPTT này không chỉ biết phối hợp với nhau trong một dự án sản xuất chương trình, mà còn biết phối hợp với các công ty du lịch để biến hành trình sản xuất phóng sự thành một tour du lịch văn hóa đầy hấp dẫn.